Nuôi cá mú khép kín ở Đài Loan
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Nuôi cá mú khép kín ở Đài Loan
Nuôi cá mú khép kín ở Đài Loan
Hiện nay Ðài Loan có khả năng sản xuất giống cá mú ở quy mô thương
mại lớn, cung cấp giống và trứng cá mú đã thụ tinh để
xuất khẩu sang các thị trường khác. Các loài chính được
nuôi trong các trại là E. coicoides, E. malabaricus, E. lanceolatus và E. fuscoguttatus. Hiện nay, có 15 loài cá mú đang được nuôi
tại Ðài Loan. Các vấn đề như lượng cung cấp và nhu cầu
tiêu thụ thường gây ảnh hưởng đến giá cả. Do vậy, các
nhà nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản đang tiến hành thử
nghiệm các loài khác nhau để tăng thêm tính cạnh tranh trong
thị trường. Gần đây, một số loài mới đang được sử
dụng để nuôi biển và cho thử nghiệm sinh sản trong môi trường
lồng bè (kín) bao gồm E. Tukula, E. bruneus, E. multinotatus, E.
flavocaeruleus, E. cyanoopdus, Plectropomus, laevis, Cromileptes altivelis và Cephalopholis sonnerati. Những loài này thường không có đủ
để đáp ứng nhu cầu của thị trường cá rạn sống. Nuôi
biển thâm canh hoặc trong môi trường lồng bè (kín) có thể
cung cấp nguồn cá mú phù hợp và khi thu hoạch không làm
ảnh hưởng tới môi trường san hô nhạy cảm.
Trong
mấy thập kỷ qua, tại Ðông Nam Á, nhu cầu về cá mú tươi
sống đã tăng một cách đáng kể. Hầu hết nhu cầu về cá
mú được đáp ứng từ nguồn đánh bắt. Tuy nhiên, có một
số vấn đề cấp thiết liên quan đến nguồn lợi cá mú
cần được giải quyết nếu như muốn duy trì việc kinh doanh
cá mú trong tương lai.
Số
lượng cá mú rất dễ bị suy giảm bởi việc khai thác quá
mức vì vòng đời của loài này dài và kích cỡ quần thể
lại nhỏ. Việc khai thác cá mú quá mức đã xảy ra ở
nhiều khu vực và việc sử dụng một số dụng cụ khai thác
đã huỷ diệt môi trường sống của loài này. Do vậy, một
nhu cầu cấp thiết là phải phát triển các nguồn cá mú khác
để giảm áp lực khai thác đối với đàn cá tự nhiên.
Giải pháp cho những vấn đề này là thiết lập một chu trình
nuôi cá mú khép kín (sử dụng cá hương được nuôi trong
trại giống) và mở rộng nuôi biển nói chung.
Ở
Ðài Loan, việc nuôi cá mú đã bắt đầu vào năm 1972. Nguồn
giống cả cá bột được đánh bắt từ tự nhiên nhưng
nguồn này không đủ vì lượng giống trong tự nhiên đã bị
giảm đi đáng kể. Do vậy, việc nghiên cứu để sản xuất
giống nhân tạo đã được tiến hành và thành công vào
giữa những năm giữa thập kỷ 80. Từ đó đến nay, Ðài
Loan đã phát triển được một ngành công nghiệp nuôi cá mú
biển theo công nghệ tiên tiến.
Với
đặc tính tăng trưởng nhanh và lợi nhuận cao, cá mú đã
sớm trở thành loài nuôi biển quan trọng nhất ở Ðài Loan.
Năm 2001, có hơn 600 trại ương và nuôi tăng trưởng với
diện tích sản xuất hơn 700ha. Sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính
phủ đã cho phép các trại giống và nuôi cá mú phát triển có
hiệu quả, các rào cản về xuất nhập khẩu cá bột đã
được bãi bỏ nhằm thúc đẩy nền công nghiệp này. Ở Ðài
Loan sản lượng nuôi cá mú cỡ thương phẩm đã tăng từ
khoảng 1000 tấn vào những năm đầu của thập kỷ 90 và lên
đến 7000 tấn vào năm 2001. Ðể sản xuất nguồn giống cho
nuôi đại trà, đàn cá bố mẹ được kích thích để sinh
sản nhân tạo hoặc được sinh sản tự nhiên với số lượng
20 triệu cá bột hằng năm.
Các
hoạt động nuôi biển
Khó
khăn chính gặp phải trong việc phát triển nuôi cá mú là
sản xuất giống cá phù hợp. Việc nuôi ấu trùng cá mú thường
không chắc chắn vì với số lượng nuôi lớn nhưng tỷ lệ
sống sót nhìn chung là thấp. Tuy nhiên, những người nông dân
nuôi cá mú Ðài Loan đã vượt qua vấn đề này. Những lý do
thành công của nền công nghiệp nuôi ấu trùng cá mú Ðài
Loan bao gồm:
Sản
xuất số lượng lớn trứng đã được thụ tinh :
Có
ít nhất có 10 trại nuôi cá mú bố mẹ quy mô lớn ở miền
Nam Ðài Loan. Thông thường, họ để cho loài cá này sinh sản
tự nhiên trong các ao. Vào mùa sinh sản chính, mỗi ngày có
tới 300 cá bố mẹ sản xuất trên 20kg trứng (30 triệu
trứng) trong một ao diện tích 0,2 ha. Mỗi năm các trại nuôi
cá bố mẹ có thể sản xuất ra 20 tỉ trứng cá mú đã được
thụ tinh đáp ứng đủ nhu cầu cho hơn 1000 trại nuôi cá mú.
Hoóc
môn được sử dụng để kích thích cá sinh sản sớm hơn vì
những con giống này sẽ thu được giá cao hơn những cá
giống sản xuất muộn hơn.
Tổ
chức các trại giống kết hợp, người điều hành trại nuôI
có kinh nghiệm và có các hệ thống nhỏ chuyên môn hoá cao
nằm trong một hệ thống nuôi cá mú tiên tiến.
Hệ
thống nuôi cá mú liên quan đến một loạt các trại nuôI
chuyên nghiệp nằm trong những khu vực sản xuất. Các trại
sản xuất trứng thụ tinh, đàn cá bố mẹ được giữ trong
các ao ngoài trời và được kích thích để sinh sản nhân
tạo hoặc cho sinh sản tự nhiên. Trứng được thụ tinh sẽ
được chuyển tới trại nuôi cá bột, ở đó trứng được
phát triển đến khi có đuôi dài 3cm. Người ta sử dụng cả
hai phương pháp nuôi ấu trùng là nuôi trong nhà và ngoài
trời và sử dụng kỹ thuật nước xanh hoặc nước sạch.
Sau
đó, cá đươc đưa vào một trại nuôi cá giống và khi cá đạt
chiều dài đuôi là 7 - 9cm, chúng được chuyển đến nuôi
trong các ao ngoài trời hoặc các lồng lưới nổi. Cá được
nuôi đến khi đạt cỡ thương phẩm là 600 - 700g.
Ở
đảo Penghu, cá mú được nuôi trong các lồng lưới nổi. Ðịa
phương này chiếm khoảng 70% các lồng nuôi ở Ðài Loan bởi
vì có điều kiện cư trú và chất lượng nước tốt. Ở
miền Nam Ðài Loan, cá mú được nuôi trong các ao ở những vùng
quảng canh ven bờ biển.
Cá
mú loài E. coioides có tỷ lệ tăng trưởng tốt hơn đối
với hình thức nuôi lồng. Phải mất từ 8 - 10 tháng để nuôi
cá thành cỡ thương phẩm từ 400 - 800g trong lồng còn nuôI
trong ao thì mất từ 10 - 14 tháng.
Hiệu
quả cao trong sản xuất thức ăn tươi sống.
Cung
cấp thức ăn tươi sống cho ấu trùng cá mú là một trong
những điều khó khăn làm hạn chế sự phát triển việc nuôi
cá mú. Có một tỷ lệ cá chết lớn vì ấu trùng cá đòi
hỏi phải có những loại thức ăn phù hợp
Ðộng
vật phù du được xác định là thức ăn cho nhiều ấu trùng
cá. Chúng có kích cỡ phù hợp và cung cấp lượng dinh dưỡng
tốt. Việc thu hoạch và giữ cho chúng sống gặp rất nhiều
khó khăn tại các trại nuôi trên đất liền.
Ở
Ðài Loan, các chủ trại chuyên cung cấp nguồn thức ăn tươi
sống đã phát triển một hệ thống thâm canh sản xuất động
vật phù du và bảo đảm nguồn thức ăn tươi sống để nuôi
các loài cá biển ở quy mô thương phẩm. Các trại cung cấp
thức ăn tươi sống đã đóng một vai trò to lớn trong sự thành
công của nghề sản xuất cá mú bột ở Ðài Loan.
Có
sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ và một viện nghiên
cứu hỗ trợ việc phát triển thị trường và kỹ thuật.
Hiệp
hội Sản xuất cá giống của Ðài Loan đã được thành lập
vào tháng 5 năm 1996 với mục đích thúc đẩy Ðài Loan thành
một trung tâm cung cấp giống cá của châu Á - Thái Bình Dương,
nhằm xuất khẩu giống cá có chất lượng cao tới các nước
trong khu vực.
Một
hệ thống mang tính hội nhập của các tổ chức liên quan đến
thuỷ sản, một mạng lưới thông tin và dây chuyền các thị
trường sẽ giúp cho việc thiết lập hệ thống giám sát
chất lượng và là nguồn cung cấp các loại giống thuỷ
sinh.
Chính
phủ đã hỗ trợ tài chính, các nhà nghiên cứu từ Viện
Nghiên cứu Thuỷ sản Ðài Loan và một số trường đại
học tham gia tích cực vào việc phát triển kỹ thuật nuôi cá
mú. Thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh
học và sinh sản, các chuyên gia nuôi cá mú có thể nâng cao
mức hoạt động và tăng cường sự cạnh tranh của họ trong
nền công nghiệp này. Cũng có một số chính sách của chính
phủ với mục đích sử dụng giống cá nuôI trong trại để
táI tạo lại nguồn lợi cá mú tự nhiên đã bị khai thác quá
mức.
Sự
độc lập và sáng kiến của của các chuyên gia nuôi cá mú
Các
chuyên gia nuôi cá mú có xu hướng chuyên môn hoá các bước
khác nhau trong quy trình nuôi cá mú khép kín. Một điều được
nhận thấy rất rõ ở Ðài Loan là các chuyên gia nuôi trồng
thuỷ sản luôn cải tiến công nghệ và dẫn đầu trong thương
trường. Mặc dù có một số bí mật về kỹ thuật nuôi do môi
trường cạnh tranh cao, xong các chuyên gia đều tỏ ra có tính
tổ chức cao và cạnh tranh lành mạnh, họ cùng nhau chia sẻ
những kinh nghiệm quý báu của mình.
Những
triển vọng trong tương lai
Việc
thiếu nguồn lợi đất là hạn chế chính đối với nuôi
trồng thuỷ sản, vì thế việc nuôi cá mú phải có những
cải tiến để giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn lợi đất.
Chính sách của Chính phủ là thúc đẩy việc sử dụng hiệu
quả nguồn lợi đất bằng cách phát triển nuôi lồng biển
thay cho nuôi trong các ao trong đất liền. Cần phải khắc
phục một số thử thách khác như sự ô nhiễm từ việc nuôi
cá mú, sản xuất quá mức sản phẩm cá mú và sự cạnh
tranh của cá mú nhập khẩu. Ðài Loan hiện vẫn đang giữ
lợi thế và phát triển nuôi cá mú. Những yếu tố này là
do sự lao động cần cù của người nuôi cùng với sự giáo
dục và những kinh nghiệm tốt hơn so với các đối tác của
họ ở những nước Ðông Nam á khác. Theo báo cáo của Viện
Nguồn lợi Thế giới thì có khoảng 70% giống cá biển trên
thế giới đã hoặc đang bị khai thác quá mức.
Các
rạn san hô ngày càng bị phá hoại, đây là một tiếng chuông
cảnh báo về sự mất đi nơi cư trú của nhiều loài thuỷ
sản. Sản xuất được nhiều cá nuôi hơn để bảo vệ các
loàI cá quý hiếm và thúc đẩy nuôi thương mại trong lồng bè
có thể là một kết quả có tính lôgíc để giảm áp lực
đánh bắt ở những vùng san hô. Với tình hình này, quy trình
nuôi cá mú khép kín ở Ðài Loan sẽ là một trong những
giải pháp tối ưu để bảo vệ những vùng san hô mà vẫn đủ
cá để cung cấp cho thị trường
KHCN TS, 6/2004 - D.
L - Seafood International T3/04
Chu Trình Nuôi Cá Mú Khép Kín Ở Đài Loan
Hiện nay Ðài Loan có khả năng sản xuất giống cá mú ở quy mô thương mại lớn, cung cấp giống và trứng cá mú đã thụ tinh để xuất khẩu sang các thị trường khác. Các loài chính được nuôi trong các trại là E. coicoides, E. malabaricus, E. lanceolatus và E. fuscoguttatus.
Chu Trình Nuôi Cá...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.