Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm vẹm xanh
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm vẹm xanh
Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm vẹm xanh
Vẹm vỏ xanh (Perna viridis Linne, 1758) là một loài động
vật thân mềm hai mảnh vỏ, sống phân bố rộng khắp ở các vùng
biển nhiệt đới và á nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Theo độ
sâu, chúng phân bố từ trên dưới tuyến hạ triều đến 20m nước,
ở độ sâu 5 - 6m nước có mật độ tương đối cao. Vẹm vỏ
xanh là loài có giá trị kinh tế, hàm lượng chất dinh dưỡng cao,
được nuôi phổ biến làm nguồn thực phẩm cho con người và
những đối tượng nuôi khác. Trong tự nhiên, vẹm xanh thành thục
quanh năm nhưng tập trung vào hai vụ chính là các tháng 1 - 5 và tháng
8 - 10. Tuyến sinh dục của vẹm tồn tại ở 3 hình thức: đực, cái
và lưỡng tính. Khi vẹm thành thục, tuyến sinh dục của con đực
màu trắng sữa, con cái màu đỏ cam.
Chọn giống và kích thích phóng tinh, đẻ trứng
Vẹm được chọn cho đẻ là những cá thể khỏe mạnh, có kích
thuớc từ 85 - 100mm, tức là vẹm đã trên 1 năm tuổi tính từ
giai đoạn ấu trùng, đây là giai đoạn vẹm có tuyến sinh dục phát
triển chín muồi. Nuôi từ 3 - 7 ngày, cho ăn các loài tảo đơn bào
như: Chaetoceros sp, Nanochlopsis sp, Platymonas sp… và thường xuyên
sục khí, thay 40 - 60% nước hàng ngày. Sau khi làm vệ sinh vỏ,
dội qua nước ngọt, nước biển và đem rải đều phơi nắng 20 -
30 phút, cho vào lồng treo trên bể đẻ đã chuẩn bị sẵn. Tiếp
tục dùng vòi dội mạnh nước mặn đã được lọc sạch đã qua
xử lý chlorine hoặc viên aquasep. Qua nhiều công đoạn, vẹm bố
mẹ bị kích thích, trứng, tinh trùng được phóng ra và thụ tinh
trong nước. Khi ngửi thấy mùi tanh, kiểm tra dưới kính hiển vi có
trứng được thụ tinh thì vớt vẹm bố mẹ ra ngoài.
Ương ấu trùng nổi
Sau khi trứng thụ tinh phát triển thành ấu trùng chữ D (Veliger)
sẽ được chuyển sang bể ương ấu trùng. Mật độ ấu trùng
từ 2 - 3,5 con/ml. Thêm nước trong những ngày đầu và thay từ 25 -
30% nước từ ngày thứ 5 trở đi. Kiểm tra kích thước ấu trùng
2 ngày/lần. Giai đoạn ấu trùng chữ D cho ăn tảo đơn bào
Nanochloropsis sp, Chaetoceros sp… lượng tảo cho ăn 5 - 10 ngàn tế bào/ml,
ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều mát. Từ giai đoạn tiền kỳ
đỉnh vỏ về sau, ban đêm vào 21 - 22 giờ có thể cho ăn thêm men
bánh mì. Thời gian này, độ mặn của nước phải đảm bảo từ
30 - 34%; sục khí 24/24 giờ để đảm bảo nhiệt độ 24 - 30oC.
Thu ấu trùng và phương pháp nuôi
Thả vật bám làm từ dây nylon, tấm nhựa, lưới… được vệ
sinh sạch để ấu trùng bám khi ấu trùng có điểm mắt. Có thể
thu được con giống cỡ 3 - 5mm sau khoảng 50 ngày kể từ khi đẻ.
Môi trường sống của vẹm xanh rất thích hợp các thủy vực kín,
ít sóng gió và có dòng chảy lưu thông. Chất lượng nước giàu
thức ăn tự nhiên, có độ mặn từ 20 - 30%; nhiệt độ 23 - 30oC;
pH 7,5 - 8,5; oxy hòa tan 4 - 5mg/l.
Có nhiều phương pháp nuôi khác nhau như cọc bê tông, cọc gỗ,
treo băng bè hoặc dây treo… Nuôi treo bằng phao hoặc bằng bè được
sử dụng rộng rãi vì phù hợp ở những vùng có sóng gió, dễ di
chuyển và thao tác. Sau 2 năm có thể thu hoạch vẹm thương phẩm
với kích thước 10 - 15cm, khối lượng 80 - 120g.
AN KHÁNH (Theo tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu thủy sản lll), KH, 30/11/2004
Nuôi vẹm xanh
Vẹm xanh là đối tượng nuôi trồng thuỷ sản mới, có giá
trị kinh tế. Vẹm xanh dễ nuôi và trong quá trình nuôi, không cần
bổ sung thức ăn cho chúng.
Cách nuôi
Có thể chọn các vùng đầm hồ, các vùng cửa vịnh để nuôi
vẹm xanh, song môi trường nước phải trong sạch, không bị nước
thải công nghiệp pha trộn...
Dụng cụ nuôi
Dùng loại rổ nhựa mắt dày, đường kính 50cm trở lên, hai
mặt trên và dưới rổ được lót bọc bằng những tấm lưới dày
hoặc vải màn để chống các loài sinh vật làm hại. Mỗi rổ
thả khoảng 500 con. Sau đó đem rổ nuôi thả chìm xuống nước
theo cọc tiêu đã được đóng trước. Rổ nuôi vẹm phải nằm
ở vị trí cách đáy đầm 30-50cm. Để cố định được vị trí
các rổ, nên cho vào rổ những hòn đá thích hợp và cố định
bằng dây buộc trên cọc tiêu. Môi trường nước nuôi phải đảm
bảo sự ổn định tương đối về độ mặn, độ pH, nhiệt độ
khi thời tiết thay đổi.
Chăm sóc
Hai bên cửa sông nơi có nhiều thực vật phù du, mùn bã hữu cơ
(là những thức ăn chính của vẹm) là những vùng đất thuận
lợi để vẹm xanh phát triển vỏ tốt nhất... Trong quá trình nuôi
phải chú ý khâu làm vệ sinh rổ. Cần cọ rửa rổ sạch sẽ để
tiêu diệt các loại sinh vật khác sống ký sinh trên vẹm (nhất là
con hàu).
Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Khánh Hoà đã nuôi thử nghiệm vẹm
xanh ở đầm Nha Phú, theo phương pháp đóng cọc trên diện tích
10.000ha. Đến nay đã có trên 100 hộ nuôi vẹm xanh, sản lượng
vẹm thương phẩm ước tính khoảng 40 - 50 tấn/năm.
Thu hoạch
Vẹm nuôi trên cọc, trên giàn, trong rổ cách xa lớp đáy bùn
bẩn nên rất sạch. Khi vẹm đạt cỡ 8cm (chiều dài vỏ) trở lên,
vào thời kỳ đó tuyến sinh dục phát triển mạnh nhất, nếu mở
con vẹm thấy đỏ rực, vàng rộm hay vàng sữa là thu hoạch được.
Trước đây nguồn vẹm giống phụ thuộc vào khai thác tự nhiên,
nhưng ngày nay chúng ta đã bắt đầu cho vẹm sinh sản nhân tạo và
nuôi thành vẹm hàng hoá.
NTNN, 12/8/2003
Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm vẹm xanh
Vẹm vỏ xanh (Perna viridis Linne, 1758) là một loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ, sống phân bố rộng khắp ở các vùng biển nhiệt đới và á nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Theo độ sâu, chúng phân bố từ trên dưới tuyến hạ triều đến 20m nước, ở độ sâu 5 - 6m nước có mật độ tương đối cao.
...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.