Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)
Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)
Rachycentron canadum (Linnaeus, 1766)
Công nghệ sản xuất giống cá giò
Trong thời gian gần đây, cá giò đã được nuôi phổ biến trong
lồng bè ở vùng biển các địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh,
Nghệ An và Vũng Tàu. Chúng có tốc độ sinh trưởng nhanh, từ con
giống cỡ 20 -25g/con sau 1 năm nuôi có thể đạt 4 - 5kg/con. Ðây là
đối tượng có rất nhiều triển vọng đối với nghề nuôi
biển ở nước ta. Hiện nay, hầu hết các lồng nuôi chỉ sử
dụng con giống từ nguồn sinh sản nhân tạo vì sự khan hiếm con
giống loài này ở tự nhiên. Chính vì vậy, nhu cầu con giống đang
ngày càng gia tăng ở nhiều địa phương.
Từ năm 1997 - 1999 Viện Nghiên cứu Hải sản đã
tiến hành nghiên cứu sinh sản cá giò và đã thành công, sản
xuất được cá giò giống và biên soạn dự thảo quy trình sản
xuất vào năm 2000 (Ðề tài nghiên cứu cấp Nhà nước). Từ năm
2001 đến nay, được sự tài trợ của Hợp phần SUMA và Dự án
NORAD, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I tiếp tục nghiên
cứu hoàn thiện quy trình tại các địa điểm Hải Phòng, Quảng
Ninh, Nghệ An và đã thu được nhiều kết quả. Hiện nay, quy trình
sản xuất giống cá giò đã ổn định và được đơn giản hoá
để áp dụng rộng rãi, kể cả tại các cơ sở không có điều
kiện đầu tư.
Nuôi vỗ: Cá bố mẹ được nuôi vỗ trong lồng lưới.
Trong điều kiện nuôi vỗ, cá giò ở tuổi thứ 2 có thể thành
thục tuyến sinh dục.
Sinh sản: Cho cá đẻ trong bể xi măng hoặc trong giai, ấp trứng và
ương ấu trùng trong bể composite hoặc bể xi măng.
Trứng được đẻ trong bể xi măng, kể cả tiêm hoặc không tiêm
hoocmôn, cá giò thường đẻ vào ban đêm, tập trung vào thời gian
từ 21 - 24 giờ. Trứng được thu ngay sau khi đẻ, tách riêng và
ấp ở nhiệt độ 28-30oC. Sau 24 - 28 giờ, trứng sẽ nở thành cá
bột có chiều dài 4 - 4,2mm.
Thức ăn cho ấu trùng cá: ở ngày tuổi thứ 3, cá bắt đầu ăn
sinh vật phù du cỡ nhỏ như luân trùng, ấu trùng hầu hà, nauplius
của copepoda; tiếp đến là loại cỡ lớn như copepoda trưởng thành,
artemia ấu trùng và trưởng thành, sau đó có thể luyện chúng ăn
thức ăn hỗn hợp. Giải quyết thức ăn tươi sống cho ấu trùng
cá: nuôi tảo thuần trên túi ni lông; nuôi luân trùng thâm canh trên
bể nhỏ; gây nuôi sinh vật phù du trên ao đất vùng nước lợ. Vì
vậy, việc áp dụng quy trình sản xuất giống cá giò đã dễ; dàng,
thuận lợi và có điều kiện mở rộng.
Kết quả: Tỷ lệ cá giống tính từ khi nở cỡ 12-15cm đạt 4-5%,
thời gian ương từ 50-60 ngày.
Ðịa chỉ liên hệ: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I Ðình
Bảng-Từ Sơn - Bắc Ninh; Trạm Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản Cát Bà.
Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)
Vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển:
- Độ sâu phải bảo đảm
đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m.
- Tránh nơi sóng to, gió
lớn như sóng cao trên 2m và tốc độ dòng chảy 1m/giây vì có
thể làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động
yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.
- Cần tránh những nơi nước
chảy quá yếu hay nước đứng mà có thể dẫn đến cá
chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy
lồng gây ô nhiễm.
- Tốc độ chảy thích
hợp từ 0,2-0,6m/giây.
- Đảm bảo hàm lượng
oxy từ 4-6mg/lít, nhiệt độ 25-30 độ C, độ mặn từ 27-33 %o.
- Cần tránh xa những nơi
gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thải công nghiệp, nước thải
sinh hoạt và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều.
Trở ngại trong nuôi lồng cá biển:
Trong nuôi lồng cá biển,
dù có nhiều ưu điểm, song, vẫn còn trở ngại trước mắt sau:
Bẩn lồng: Lồng nuôi cá
bị dơ bẩn nặng trong quá trình nuôi là vấn đề khó có thể tránh
khỏi, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới. Chua and Tend (1980) đã
ghi nhận lại rằng, do sự gây dơ bẩn nhanh chóng của các sinh
vật như hào, giun, rong, tảo ... mà làm lồng có mắc lưới 37 mm
ở eo biển Penang bị giảm lưu thông nước đến 60% sau 2 tuần ngâm
trong nước và đến 87% sau 1 tháng. Lồng có mắc lưới 12,7 mm lưu
thông nước giảm 93% sau 3 tuần hoạt động.
Nguồn giống: Hiện tại,
nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cá lồng vẫn còn dựa chủ
yếu vào khai thác tự nhiên. Tuy nhiên, sản lượng khai thác không
thể đáp ứng được nhu cầu con giống để mở rộng sản xuất
hơn. Hơn nữa do tỷ lệ con đực (cá mú) trong quần thể tự nhiên
ít hơn 5%, việc thu gom cá đực cho nghiên cứu và sản xuất
giống cũng bị hạn chế.
Thức ăn: Do việc nuôi cá
lồng bị phụ thuộc vào nguồn thức ăn là cá tạp, khả năng
cung cấp sẽ bị động và vì thế cho ăn không đều. Thức ăn là
cá tạp không đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng cho cá nuôi, và cá
tạp thối bẩn cũng dễ gây ra bệnh cho cá.
Chất lượng nước thay đổi:
Việc nuôi cá lồng còn bị ảnh hưởng mạnh bởi sự thay đổi dòng
chảy sóng gió, và các yếu tố khác như độ mặn, pH, độc tố
do nhiễm bẩn, tảo nở hoa... Vì thế, trước khi nuôi, cần xem xét
và chọn vị trí thích hợp.
Địch hại: Nhiều quan sát
cho thấy rằng nuôi cá trong lồng có nhiều địch hại như rắn
biển mực, cá dữ phá lồng hay vào lồng gây hại cho cá nuôi,
chim cũng là địch hại nguy hiểm cho cá khi lồng không được
bảo quản kỹ.
Bệnh cá: Cá biển nuôi
lồng thường mắc một số bệnh ký sinh và vi khuẩn.
Các vấn đề cần lưu ý
để đảm bảo sức khỏe cho cá trong nuôi lồng:
- Chọn giống loài nuôi
ít mẫn cảm với bệnh tật
- Chọn vị trí cẩn
thận
- Cá giống khoẻ mạnh và
kích cỡ hợp lý
- Thường xuyên theo dõi,
chăm sóc cá nuôi để chuẩn đoán tình trạng sức khoẻ cá
- Mật độ nuôi vừa
phải
- Không cho cá ăn quá
thừa cũng như quá thiếu
- Thức ăn phải tươi,
không có mầm bệnh
- Loại bỏ cá chết ra
khỏi lồng và hủy cá
- Ngăn ngừa địch hại
- Vệ sinh dụng cụ thường
xuyên
- Thao tác nhẹ nhàng khi
đánh bắt cá
(Nguồn: ĐH Cần Thơ)
Rachycentron
canadum Cobia
Rachycentron
canadum
(Linnaeus,
1766) |
|
Family: |
Rachycentridae
(Cobia) |
picture (Racan_u1.jpg) by Randall,
J.E.

AquaMaps
Map
|
Order: |
Perciformes
(perch-likes) |
Class: |
Actinopterygii (ray-finned fishes) |
FishBase name: |
Cobia |
Max. size: |
200 cm TL (male/unsexed; Ref. 10790); max.
published weight: 68.0 kg (Ref. 7251); max. reported age: 15 years |
Environment: |
reef-associated; oceanodromous (Ref. 51243);
brackish; marine; depth range 0 – 1200 m |
Climate: |
subtropical; 47°N - 37°S, 98°w - 166°e |
Importance: |
fisheries: minor commercial; aquaculture:
commercial; gamefish: yes |
Resilience: |
Medium, minimum population doubling time 1.4
- 4.4 years(K=0.09-0.22; tm=2-3; tmax=15) |
Distribution:
Gazetteer |
Worldwide in tropical and subtropical waters
except the eastern Pacific (Ref. 9739, 33390). Western Atlantic: Bermuda
and Massachusetts, USA to Argentina (Ref. 7251), including the Gulf of
Mexico (Ref. 9626) and entire Caribbean (Ref. 26938). Eastern Atlantic:
Morocco to South Africa. Indo-West Pacific: East Africa (Ref. 2871,
5213, 6644, 30573) and Hokkaido, Japan to Australia. Not recorded from
the Pacific Plate, except marginally (Ref. 10948).
|
Morphology: |
Dorsal
spines
(total): 7 - 9; Dorsal
soft
rays (total): 31; Anal
spines:
2; Anal
soft
rays: 24. Head broad and depressed. First dorsal fin with short but
strong isolated spines, not connected by a membrane. Caudal fin lunate
in adults, upper lobe longer than lower. Back and sides dark brown, with
2 sharply defined narrow silvery bands.
|
Biology: |
Occurs in a variety of habitats, over mud,
sand and gravel bottoms; over coral reefs, off rocky shores (Ref. 10948)
and in mangrove sloughs; inshore around pilings and buoys, and offshore
around drifting and stationary objects; occasionally in estuaries (Ref.
9739). Forms small groups and may pursue small pelagic inshore (Ref.
48635). Feeds on crabs, fishes, and squids (Ref. 5213, 10948, 13442).
Spawns during the warm months in the western Atlantic; eggs and larvae
planktonic (Ref. 12459). Caught in small quantities due to its solitary
behavior (Ref. 9626). Good food fish; marketed fresh (Ref. 5284),
smoked, and frozen (Ref. 9987). Also caught for sport (Ref. 26938).
|
Theo Fishbase
Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)
Công nghệ sản xuất giống cá giò Trong thời gian gần đây, cá giò đã được nuôi phổ biến trong lồng bè ở vùng biển các địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An và Vũng Tàu. Chúng có tốc độ sinh trưởng nhanh, từ con giống cỡ 20 -25g/con sau 1 năm nuôi có thể đạt 4 5kg/con. Ðây là đối tượng có...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.