Cách làm trắng thịt cá tra
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Cách làm trắng thịt cá tra
Cách làm trắng thịt cá tra
Một nghiên cứu mới của trại giống Minh An, tỉnh Vĩnh Long, vừa đưa ra những biện pháp kỹ thuật để làm thịt cá tra từ vàng chuyển thành trắng.
Thông thường, để thịt cá tra trắng, người nuôi phải thay nước thường xuyên. Tuy nhiên, biện pháp này cho kết quả không đồng đều ở các hộ khác nhau và thay nước nhiều cá dễ bị bệnh và chết. Có 2 nguyên nhân dẫn đến thịt cá tra có màu vàng, đó là do nước ao bẩn và cá ăn thức ăn ôi thiu. Bằng thử nghiệm sục khí đáy kết hợp với thay nước có kiểm soát, tỉ lệ thịt trắng đã đạt đến 75%.
Theo đó, khi sinh khối cá trong ao từ 2 kg/m3 thì việc sục khí nên tiến hành khoảng 12 giờ/ ngày; khi sinh khối cá đạt 6 kg/m3 nên sục khí 24 giờ/ ngày. Được biết, chi phí nuôi cá tra cho thịt trắng bằng cách sục khí đáy có giá thành khoảng 7.053 đồng/kg, thấp hơn khoảng 200 đồng/kg so với chi phí nuôi bằng cách thay nước.
(Theo NLĐ) Nets, 8/2006
Kinh nghiệm nuôi cá tra thịt trắng
1.
Tiềm năng nuôi cá tra
Cá
tra (Pangasius hypophthalmus) là đối tượng nuôi thuỷ sản nước
ngọt được nuôi chủ lực của các tỉnh Ðồng bằng sông Cửu
Long (ÐBSCL). Ðây là loài cá có tính thích nghi rộng, chịu đựng
được những điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Nó có
thể nuôi trong môi trường nước chảy (lồng, bè, đăng, quầng )
với mật độ rất cao : 100 - 150 con/m3 nước; đồng thời có thể
sống trong môi trường nước tĩnh (ao, hầm, mương vườn, ruộng lúa,),
năng suất nuôi có thể đạt tới 300 tấn/ha.
Ðồng
Tháp có diện tích mặt nước có thể đạt trên 2.000 bè nuôi cá
(ba sa, tra) và đất bãi bồi 1.412 ha được phân bố ở 9 huyện,
thị dọc theo sông Tiền và sông Hậu. Với tiềm năng nuôi như trên,
hiện nay Ðồng Tháp mới triển khai nuôi 200 bè và 300 ha diện tích
đất bãi bồi thì sản lượng cá thương phẩm khoảng 72.000 tấn.
Phần
lớn đất đai của tỉnh Ðồng Tháp nằm giữa 2 con sông Tiền và
sông Hậu với nhiều bãi bồi, ao hầm, có nguồn nước ngọt dồi
dào và được nước lũ bồi bổ, nuôi dưỡng, làm sạch môi trường
nên hoàn toàn có thể tin tưởng Ðồng Tháp là tỉnh có tiềm năng
lớn trong việc phát triển nuôi cá tra có chất lượng phục vụ
cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Tuy
nhiên, việc phát huy tiềm năng đó không chỉ nằm ở nuôi trồng,
sản xuất mà phần quyết định chính là ở khâu thị trường tiêu
thụ và năng lực chế biến xuất khẩu.
Những
năm qua, nghề nuôi cá tra có những bước thăng trầm, giá cả không
ổn định, việc lời lỗ không quyết định ở năng suất mà
quyết định do giá cả, thị trường. Rồi vụ kiện bán phá giá
cá tra, cá ba sa, các đòi hỏi về kỹ thuật, về an toàn vệ sinh
thực phẩm ngày một khắt khe hơn. Ðặc biệt các thị trường
lớn như Mỹ, Nhật, EU đòi hỏi rất nghiêm ngặt về chất lượng
sản phẩm. Do đó sản phẩm cá tra thịt trắng có nhu cầu ngày càng
cao và là vấn đề bức xúc đối với các nhà doanh nghiệp chế
biến xuất khẩu thuỷ sản và người nuôi.
2.
Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến màu thịt cá tra
Từ
thực tiễn sản xuất cho thấy, có thể phân loại màu thịt cá
tra từ cao đến thấp như sau: trắng, vàng chanh, hồng, vàng.
Theo
nhận định của một số nhà khoa học màu thịt cá có thể
quyết định bởi 3 yếu tố : di chuyển; chế độ dinh dưỡng
(thức ăn); điều kiện sống (môi trường, thời tiết, ). Trong đó,
thành phần các loại thức ăn của cá có tác động rất lớn đến
màu thịt của cá tra nuôi. Dù nuôi cá bất cứ ở hình thức nào
(bè, ao), bất cứ môi trường nào (nước chảy, nước tĩnh) nếu
sử dụng những loại thức ăn xanh (rau muống), chất kết dính
(bột gòn) thì chắc chắn thịt cá sẽ có màu vàng.
Một
số hộ nuôi cá bè khác còn cho biết các loại thức ăn như bắp,
bí đỏ, cua đồng, cũng là nguyên nhân làm cho thịt cá tra không
được trắng (vàng chanh, hồng).
Cùng
một thành phần thức ăn (rau muống, cám tấm nấu, cá tạp xay
nhuyễn) nếu được ủ lên men bằng hèm rượu sau 24h mới cho cá
ăn thì thịt cá sẽ trắng đẹp do quá trình ủ lên men đã phân
huỷ một số thành phần diệp lục tố trong rau muống. Còn ngược
lại, nếu cho cá ăn trực tiếp không qua ủ lên men thì thịt cá
sẽ có màu vàng. Trong năm 2000, cá thịt trắng bán cho các nhà máy
chế biến xuất khẩu thuỷ sản với giá 14.000 đ/kg trong khi cá
thịt vàng bán tiêu thụ nội địa chỉ được 10.000 đ/kg. Qua đó
cho thấy cá tra thịt trắng là một trong những tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng sản phẩm, là yếu tố quyết định đến hiệu
quả kinh tế trong việc nuôi cá tra thương phẩm. Hộ anh Nguyễn Văn
Hà ở xã Mỹ An Hưng A - huyện Lấp Vò - Ðồng Tháp thả nuôi
120.000 con cá tra trên diện tích 2.000 m2, thu hoạch được trên 100
tấn cá thương phẩm có chất lượng thịt trắng (Ðây là vụ nuôi
thứ ba liên tiếp anh thu hoạch từ 100 - 120 tấn cá trong 01 vụ).
Với thành phần thức ăn 45% cám chuối, 45% cá biển xay, 15% bả hèm
rượu, phối thêm một ít vitamin, premix. Ngày trung bình thay nước
5 giờ (khoảng 15% nước ao). Tảo trong ao vẫn phát triển rất
mạnh, độ trong thấp (<15cm). Qua kinh nghiệm của anh Hà và một
số hộ nuôi khác, có thể sơ bộ kết luận : Bả hèm rượu với
một lượng vừa phải từ 10 - 15% được bổ sung liên tục vào thành
phần thức ăn nuôi cá tra sẽ giúp cá có sức đề kháng tốt, ít
bệnh và quan trọng hơn hết là thịt cá có màu trắng (tỉ lệ
cao) và một tỉ lệ thấp vàng chanh, hồng.
Ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường, thời tiết
Tổng
kết các mô hình nuôi cá tra hiện nay, chúng tôi nhận thấy mỗi mô
hình nuôi đều có những ưu và nhược điểm của nó, theo thứ
tự như sau :
-
Cá nuôi ao nước tĩnh ít thay nước, hệ số thức ăn thấp, tỉ
lệ sống cao, cá ít bệnh, thịt cá có màu vàng.
-
Cá nuôi ao bãi bồi có chế độ thay nước thường xuyên, hệ số
thức ăn cao hơn, tỉ lệ sống thấp hơn, thịt cá màu trắng, vàng
chanh đến hồng.
-
Cá nuôi bè, đăng quầng nước chảy, hệ số thức ăn cao hơn
hết, tỉ lệ sống thấp nhất (chỉ đạt khoảng 70 - 75%), thịt cá
trắng đẹp, tỉ lệ vàng chanh thấp. Mô hình này cá thường bị
bệnh do phải phụ thuộc thường xuyên vào môi trường nước bên
ngoài thay đổi.
Như
vậy là nếu giữ được môi trường nước trong sạch, không để
tảo phát triển, có chế độ thức ăn hợp lý (nên dùng thức ăn
viên công nghiệp và định kỳ dùng các sản phẩm xử lý đáy ao
để giảm thiểu vấn đề thích tụ chất thải và giảm ô nhiễm
nguồn nước, đáy ao). Nếu làm tốt những yêu cầu trên thì chúng
ta sẽ tạo ra được sản phẩm cá tra chất lượng cao, thịt cá
trắng đẹp, bán có giá hơn.
Ngoài
ra, cũng cần chú ý vào thời điểm nước quay (đầu tháng 5 ÂL) là
lúc nước có màu đỏ son khiến cá tra nuôi bè hoặc đăng quầng
bị ảnh hưởng thịt cá bị đổi màu, nếu thu hoạch lúc này thì
giá bán rất thấp.
Ðặc
biệt trong những ngày nắng nóng kéo dài, nhiệt độ nước sông
trên 29oC và nhiệt độ nước ao nuôi trên 38oC cũng có thể làm
cho màu thịt cá tra kém chất lượng.
Rút
được kinh nghiệm trên, trong thời gian qua ngư dân Ðồng Tháp đã
thực hiện các biện pháp nuôi như sau :
Về
mô hình nuôi : chuyển đổi từ nuôi trong ao sang nuôi đăng quầng
và nuôi trong ao ven sông để chủ động thay nước.
Về
thức ăn : Chuyển từ sử dụng thức ăn tự chế biến sang sử
dụng thức ăn công nghiệp.
Về
con giống : Chuyển từ việc sử dụng con giống tự nhiên sang con
giống sinh sản nhân tạo
Theo Sở NN&PTNT Ðồng Tháp
Kỹ thuật nuôi cá tra thịt trắng
Năm 2004, năm đầu tiên ngành chăn nuôi thủy sản tỉnh AG đạt
tổng sản lượng trên 152.000 tấn cá nuôi, tăng 11,9% so năm 2003,
đạt kim ngạch xuất khẩu 120 triệu USD, vượt qua kim ngạch xuất
khẩu gạo. Nuôi trồng thủy sản trở thành một ngành mũi nhọn
trong kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Tuy đạt sản lượng cao, nhưng
chất lượng nuôi trồng thủy sản đạt chưa cao, đã ít nhiều
bị ảnh hưởng đến thu nhập cho người chăn nuôi. Một vấn đề
được đặt ra hiện nay là làm thế nào để nâng cao chất lượng
nuôi trồng thủy sản ?
Trước đây, anh Đỗ Văn Tùng, ở ấp Long Hòa xã Ô Long Vĩ,
huyện Châu Phú chuyên làm lúa và chỉ đủ sống, từ khi anh bắt
tay vào nuôi cá thì gia đình anh khấm khá hơn. Trong niên vụ nuôi
vừa qua anh Tùng thả 25.000 con cá tra hầm, được các anh em nuôi cá
trước đây chỉ dẫn nên mô hình nuôi cá hầm của anh khá thành
công. Vừa qua anh thu hoạch được sản lượng trên 30 tấn cá sau
khi bán trừ các chi phí còn lãi gần 40 triệu đồng. Thấy nghề
nuôi trồng thuỷ sản có khả năng phát triển được nên anh
quyết định đầu tư nuôi cá ao hầm. Một vấn đề mà anh Đỗ Văn
Tùng lo lắng là cá nuôi trong hầm đạt chất lượng chưa cao,
thịt cá không trắng như những mô hình chăn nuôi khác, khi bán cá
bị thương lái trừ hao nhiều nên đồng lời bị giảm.
Không riêng gì anh Tùng mà hầu hết ngư dân nuôi cá tra ao hầm
ở huyện Châu Phú nói riêng và tỉnh AG nói chung đều có chung
nổi lo về chất lượng cá tra chưa cao sẽ khó khăn khi mà đất nước
ta chính thức bước vào hội nhập kinh tế thế giới. Cuối tháng
12 /2004, Cty Liên doanh Bio – Pharmachemie đã cử cán bộ kỹ thuật
đến các vùng trọng điểm nuôi cá ao hầm để cung cấp kỹ
thuật chăm sóc cá nuôi ao để cho thịt trắng. Gặp gỡ với ngư
dân xã Ô Long Vĩ, huyện Châu Phú cán bộ kỹ thuật và bà con ngư
dân đã trao đổi về cách xử lý ao hầm, bơm thay nước, cơ cấu
thức ăn là một trong số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng cá nuôi hầm hiện nay.
Được biết, trong thời gian qua Cty Liên doanh Bio – Pharmachemie
đã tiến hành thực nghiệm về kỹ thuật nuôi cá tra thịt trắng
ở nhiều nơi như tỉnh AG, Đồng Tháp, Vĩnh Long .v.v... và đã thành
công. Theo kỹ sư Đặng Hồng Đức, Trưởng bộ phận Thuỷ sản
Cty Liên doanh Bio – Pharmachemie cho biết: Có 3 yếu tố rất quan
trọng giúp cá nuôi thịt trắng đó là cách quản lý môi trường
nuôi, kiểm soát dịch bệnh và quản lý thức ăn tốt thì mới thành
công. Về quản lý môi trường, trước khi thả cá giống cần
diệt khuẩn bằng BioXide, sau đó từ 7 đến 10 ngày dùng vi sinh như
Bio ZeoGreen hoặc Bio Yucca ( theo liều hướng dẫn trong chai ) đánh
xuống ao để phân huỷ chất hữu cơ. Trong trường hợp ao nuôi có
tảo phát triển mạnh, bà con dùng Bio BKC 80 để xử lý tảo vào
buổi trưa nắng, cứ 1 lít thuốc sẽ xử lý trên 2.000 mét khối nước
trong 48 giờ, sau đó dùng vi sinh để phân huỷ xác tảo. Một yếu
tố quan trọng nữa là cần thay nước định kỳ, tức là sau 30 ngày
thả cá giống bà con có thể thay nước mỗi tuần 1 lần, sau 3 tháng
chu kỳ nuôi thay nước từ 3 đến 5 lần 1 tuần, lượng nước
thay là 30%, đến cuối chu kỳ nuôi hầm rất dơ, do vậy mỗi ngày
bà con cần bơm thay nước, lượng nước thay chiếm khoảng 50%
hầm.
Về quản lý dịch bệnh, trong trường hợp ao đã nhiều lần
xuất hiện cá bệnh sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cá nuôi.
Do vậy, việc quản lý dịch bệnh trên ao nuôi cần được quan tâm
thường xuyên. Hơn nữa, trong chế độ thay nước cá có thể bị
Shock (sốc), chính vì thế cá dễ mắc bệnh. Khi thấy hiện tượng
cá bị Shock, cần bổ sung Vitamin C hoặc NUTRUFISH để tăng sức đề
kháng chống Shock cho cá nuôi. Sau đó từ 10 đến 12 ngày bà con nên
dùng Bio Xide đánh xuống ao để diệt mầm bệnh. Đặc biệt, nếu
cá bị nhiễm giun sán nội ký sinh, quan sát thấy biểu hiện cá
chậm lớn, mổ trong nội tạng có giun, bà còn cần tẩy giun 2 tháng
1 lần bằng thuốc Bio BenZol liều dùng 1 ký thuốc trộn với 50 ký
thức ăn để tẩy giun cho 3.000 ký cá. Về quản lý thức ăn, trong
cơ cấu thức ăn luôn được bố trí phù hợp, tránh cho những
thức ăn độn không cần thiết như không nên dùng thức ăn xanh
hoặc dùng bột gòn làm chất kết dính sẽ ảnh hưởng đến môi
trường cá nuôi. Ngoài ra bà con cần bổ sung thường xuyên vào
thức ăn cho cá Sorbitol để tăng cường sức đề kháng phòng
những trường hợp môi trường thay đổi.
Nuôi cá tra thịt trắng đảm bảo chất lượng cao là mong muốn
chung của ngư dân hiện nay. Để đạt yêu cầu này, đòi hỏi khi
bà con tham gia xây dựng mô hình nuôi cá ao hầm của mình cần tuân
thủ các biện pháp kỹ thuật trên để đạt chất lượng cao hướng
đến nền sản xuất nông nghiệp bền vững, đồng thời còn tạo
điều kiện để bà con ngư dân bán được giá cao góp phần thúc
đẩy nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển .
Trung Liêm, WAG, 10/1/2004
Cách nào để thịt cá tra
không bị vàng?
Cá tra thịt vàng, giá thấp so cùng loại (thịt
trắng); càng thấp hơn so với giá cá basa. Vậy làm thế nào để
thịt cá không bị vàng? Cá basa thích nghi với môi trường trong
sạch, mát, dưỡng khí trong nước cao hơn. Vì vậy, chúng thường
được nuôi nhiều trong bè trên các dòng sông lớn. Còn cá tra, ngoài
các đặc điểm sống như cá ba sa còn có khả năng sống ở môi
trường nước tù đọng, dưỡng khí hoà tan thấp. Cả hai loài cá
này đều ăn các thức ăn giống nhau. Nhưng do chúng sống ở môi
trường khác nhau nên phẩm chất thịt khác nhau về màu sắc. Màu
sắc thịt cá chủ yếu là do thức ăn và do sắc tố. Trong môi trường
nước có nhiều sinh vật tảo và khí độc thì thịt cá tra sẽ
bị vàng. Thịt cá càng bị vàng nhiều nếu nhu cầu thức ăn không
đủ cho cá và chúng phải tìm thức ăn bên ngoài. Sắc tố của
từng con cá cũng khác nhau. Cá càng lớn, nuôi càng lâu trong môi trường
có nhiều tảo thì qúa trình tích lũy chất ảnh hưởng đến màu
sắc càng tăng. Để khắc phục tình trạng thịt cá tra khỏi bị
vàng, người nuôi nên tạo môi trường ao nuôi trong sạch, có
nguồn nước ra vào thông thoáng và hàm lượng đạm trong thức ăn
đảm bảo 30%. Nguồn thức ăn công nghiệp này thường có bán
sẵn trên thị trường và có ghi rõ công thức trên bao bì. Không
cho cá ăn dư, hoặc ăn thiếu, nếu dư ao sẽ sinh ra tảo, nếu
thiếu cá tìm ăn các loài thức ăn tạp khác kể cả tảo. Khi
thấy nước ao nuôi ngả màu xanh cần phải bơm thay nước. Cũng có
thể áp dụng quy trình nuôi theo công đoạn. Tức là vào 1-2 tháng
cuối khi cá gần đủ trọng lượng bán sẽ đưa cá ra bè nuôi để
thịt cá bớt vàng.
Thực tế, người nuôi cá tra, ba sa ở ĐBSCL muốn
tiết giảm giá thành nên thường cho cá ăn các loại thức ăn tự
chế biến. Như vậy, khó xác định được độ đạm trong thức
ăn. So với cá 300gr trở xuống, hàm lượng đạm trong thức ăn
phải cần từ 28 - 30% (có sẵn trong thức ăn công nghiệp); cá từ
300 - 700gr cho ăn theo tỷ lệ thức ăn bằng 3 - 4% trọng lượng thân
cá. Cá tra ăn tạp hơn nên mau lớn hơn cá basa ( cá basa nuôi 8 -9
tháng = 1kg, cá tra nuôi 6 - 7 tháng = 1kg). Do cá tra ít bệnh và thả
được mật độ cao hơn (30 - 40 con/m2 so với cá ba sa 5 - 10 con/m2)
nên người nuôi chuộng cá tra hơn, mặc dù giá có thấp hơn cá
basa 2.000 - 3.000 đ/kg. Nuôi cá tra kinh tế hơn là do chủ động được
con giống và thời vụ. Bình quân, một con cá tra cái đẻ được
30.000 - 40.000 trứng, còn một con cá ba sa cái chỉ đẻ được
15.000 – 20.000 trứng.
Về mặt dinh dưỡng cá tra ít mỡ hơn cá ba sa và
tỷ lệ thịt philê nhiều hơn. Tuy nhiên, trong mỡ cá basa có một
loại axit béo không no có tác dụng làm giảm béo phì nên được các
nước phương Tây ưa chuộng. Thực tế, thì philê basa và cá tra có
hàm lượng dinh dưỡng như nhau nhưng do thói quen tiêu dùng nên người
ta chỉ chú ý đến cá basa. Một doanh nhân chuyên nghề chế biến
cá da trơn ở TP.Cần Thơ cho biết: Muốn phân biệt được cá tra
và cá basa người ta dựa vào sớ thịt cá. Basa: Miếng philê ngắn
hơn, dày hơn, sớ thịt ngang, thịt hơi trắng hơn so với cá tra
sớ thịt xiên và dài.
NNVN, 17/3/2004
Nuôi cá tra thịt trắng
Cá tra đánh bắt ngoài tự nhiên tại các vùng nước
sạch đều có thịt màu trắng, trong khi cá tra nuôi hầm bè thịt
cá thường bị vàng, nên hiệu quả xuất khẩu không cao.
Nguyên nhân chính là do môi trường nước nuôi và
nguồn thức ăn. Kinh nghiệm của người nuôi cá tra ở Đồng Tháp
cho thấy: nếu sử dụng các loại thức ăn xanh (rau muống), bắp,
bí đỏ, cua đồng...; chất kết dinh (bột gòn) chắc chắn thịt cá
sẽ có màu vàng.
Khắc phục
Sử dụng thức ăn: Nhiều hộ nuôi cá tra cho
biết, cùng với thành phần thức ăn như rau muống, cám tấm nấu,
cá tạp xay nhuyễn... nếu được ủ lên men bằng hèm rượu sau 24
giờ mới cho cá ăn thì thịt cá sẽ trắng đẹp do quá trình ủ lên
men đã phân huỷ một số diệp lục tố trong rau muống. Theo kinh
nghiệm, với thành phần thức ăn 45% cám chuốt, 40% cá biển, 15% bã
hèm rượu, phối thêm ít vitamin, Premix. Ngày trung bình thay nước 5
giờ (khoảng 15% nước ao), dù tảo có phát triển nhưng chất lượng
cá vẫn không bị vàng.
Điều này cho thấy, bã hèm rượu với một lượng
vừa phải, khoảng 10-15% bổ sung liên tục vào thành phần thức ăn
của cá, sẽ giúp cá có sức đề kháng tốt, ít bệnh và cá đạt
tỉ lệ thịt trắng cao.
Môi trường nuôi
- Trên thực tế, cá tra nuôi ao nước tĩnh, ít thay
nước, hệ số thức ăn thấp, tỉ lệ sống cao, cá ít bị bệnh
nhưng thịt hay bị vàng.
- Cá tra nuôi ao bãi bồi có chế độ thay nước thường
xuyên, hệ số thức ăn cao, tỉ lệ sống thấp hơn, thịt cá thường
có màu trắng.
- Với cá nuôi bè, đăng quầng nước chảy, hệ
số thức ăn cao, tỉ lệ sống đạt 70-75%, nhưng thịt cá trắng
đẹp. Song mô hình này phải theo dõi chăm sóc tốt vì cá thường
bị bệnh do phụ thuộc thường xuyên vào môi trường nước.
Như vậy, nếu giữ được môi trường nước nuôi
trong sạch, không để tảo phát triển bằng các mô hình nuôi chủ
động thay nước như nuôi đăng quầng, nuôi trong ao ven sông, có
chế độ ăn thích hợp và định kỳ xử lý đáy ao nhằm giảm
thiểu chất thải gây ô nhiễm, kết hợp với kinh nghiệm cho thêm
hèm rượu trong thức ăn, sử dụng con giống nhân tạo, cá tra thương
phẩm sẽ đáp ứng được tiêu chuẩn xuất khẩu.
Ngoài ra, nuôi cá tra thương phẩm cần phải chú ý
đến thời điểm nước xoay (vào khoảng đầu tháng 5 âm lịch). Lúc
này, nước sông có màu đỏ son, cá tra nuôi bè, đăng quầng sẽ
bị ảnh hưởng đến màu thịt. Vì vậy người nuôi hạn chế thu
hoạch vào thời điểm này.
Trong những ngày nắng nóng kéo dài (nhiệt độ nước
sông trên 29oC và nhiệt độ nước ao nuôi trên 38oC) cũng có thể
làm cho màu và thịt cá tra kém chất lượng.
NTNN, 28/3/2004
Để nuôi cá tra thịt trắng
Có một cản
ngại là cá tra
(Pangasius
hypophthalmus)
trong quá
trình nuôi,
da, thịt cá có
thể có màu
vàng.
Vấn đề liên
quan đến thịt
vàng trên cá
tra rất được
các nhà khoa
học, các người
nuôi cá quan
tâm bởi vì cá
tra thịt vàng
không được các
nhà máy chế
biến ưa
chuộng, do đó
khó tiêu thụ.
Giá giảm từ 10
- 20% so với
cá tra thịt
trắng. Về
nguyên nhân
làm cho cá tra
nuôi có thịt
vàng, có rất
nhiều yếu tố
chủ quan và
khách quan tác
động trong
suốt quá trình
nuôi. Nhìn
chung chúng
tôi thấy có
các nguyên
nhân sau:
1. Về
di truyền và
giống:
Có một loại
cá da trơn có
da màu vàng mà
người dân gọi
là cá tra nghệ
(tên khoa học
là Pangasius
kunyit). Đây
là một loại cá
có đặc trưng
da thịt đều
vàng như nghệ
nhưng thịt có
mùi vị thơm
ngon rất đặc
trưng. Sản
lượng của cá
không nhiều,
chủ yếu khai
thác từ tự
nhiên. Thỉnh
thoảng mới
thấy xuất hiện
ở chợ cá, giá
bán từ 40.000
- 50.000đ/kg,
người bán hàng
thường gọi là
Bông lau nghệ.
Loại cá này
Trung tâm
Nghiên cứu Sản
xuất giống
Thuỷ sản An
Giang đã cho
sinh sản nhân
tạo trong năm
2001.
2. Do
bệnh.
Về bệnh thì
có liên quan
đến gan và
mật.
Tác nhân
gây bệnh là do
giun sán ký
sinh trong túi
mật. Cá bị
bệnh này da sẽ
bị vàng, cá bỏ
ăn rồi chết.
Khi cá đã vàng
da việc điều
trị rất khó
khăn vì khi đã
bị bệnh về gan
và mật thì
chức năng
chuyển hoá
thức ăn và hấp
thu thuốc
không còn hoạt
động hữu hiệu,
nên việc sử
dụng thuốc ở
thời điểm này
không hiệu
quả.
Giải pháp
phòng trị bệnh
tốt nhất là:
Định kỳ tẩy
giun sán cho
cá nuôi. (Các
loại thuốc có
bán ở các cửa
hàng thuốc Thú
y - thủy sản).
Tuy nhiên, có
một thực tế
khách quan là
thuốc chuyên
dùng tẩy giun
sán cho cá
chưa có nên
thường phải sử
dụng thuốc của
gia súc, gia
cầm... Vì vậy,
khi sử dụng
thuốc cần phải
có sự cân nhắc
cẩn thận.
Cùng với
bệnh giun sán,
cá tra nuôi
với mật độ cao
nếu các biện
pháp kỹ thuật
hay quản lý
môi trường
không tốt cá
nuôi bị vi
trùng, vi
khuẩn tấn
công.
Bệnh về đốm
trắng trên gan
cá tra cũng
gây nên thịt
vàng trên cá
tra nuôi. Tác
nhân gây bệnh
là vi khuẩn
Edward
ictaluri. Các
kết quả nghiên
cứu gần đây
cho thấy chủng
vi khuẩn này
kháng với một
số loại kháng
sinh thông
thường như
Oxytetra...Vì
vậy, phải dùng
loại kháng
sinh đặc trị
và phải phát
hiện bệnh sớm
(giai đoạn đầu
của bệnh thì
kết quả mới
khả quan).
Ngoài ra,
trong quá
trình nuôi nếu
cá nuôi bị
bệnh kéo dài
hoặc lặp đi
lặp lại thịt
cá sẽ có màu
vàng.
3. Do
môi trường
- Trong ao
nuôi có nhiều
mùn bã hữu cơ,
tảo... cũng là
nguyên nhân
làm cho cá
nuôi có thịt
màu vàng. Nên
cải tạo nạo
vét bùn, bón
vôi trước khi
thả cá nuôi.
Trong quá
trình nuôi có
thể sử dụng
Zeolite để xử
lý mùn bã hữu
cơ, thức ăn dư
thừa. Zeolite
hấp thu các
độc tố NH3,
H2S, NO2, kim
loại nặng ở
nền đáy…
- Thay nước
ao nuôi từ 20%
đến 30% lượng
nước ao trong
01 ngày.
- Có thể sử
dụng sục khí
đáy ao.
- Một điểm
cần lưu ý là:
Vào mùa nước
đổ tháng 6 - 7
có những thay
đổi lớn về
chất lượng
nước trên
sông. Cá nuôi
bè, nuôi đăng
quầng hoặc
nuôi ao (sử
dụng nước sông
để thay) thì
thịt bị vàng.
- Trong ao
nuôi thiếu Oxy
thường xuyên
cá cũng bị
thịt vàng.
4. Do
thức ăn không
phù hợp
Thức ăn nên
nghiên cứu cân
đối về đạm
(nên cho ăn
trên 18o đạm).
Các nghiên cứu
về dinh dưỡng
cá tra gần đây
cho thấy việc
cân đối về đạm
trong thức ăn
của cá tra,
ngoài cải
thiện (giảm)
tích luỹ mỡ
trong cơ thể
cá còn giúp cá
tăng trọng
nhanh, rút
ngắn thời gian
nuôi.
Trong khẩu
phần thức ăn
nên bổ sung
khoáng vi
lượng, Vitamin
C định kỳ.
Không nên cho
cá ăn những
thức ăn có sắc
tố gây vàng
thịt.
Việc sử
dụng cá biển
làm thức ăn
cho cá cũng
phải chú ý về
chất lượng
(tươi, ươn,
các hoá chất
tẩm ướp trên
cá biển ngoài
ảnh hưởng đến
màu trắng của
thịt cá nuôi
còn có tác
động thành
phần đạm trong
thức ăn và sự
tiêu hoá của
cá).
Cá suy dinh
dưỡng thịt cá
thường bị
vàng.
Trong thời
gian gần đây
một số cơ sở
bán thuốc thú
y - thủy sản
có giới thiệu
một số thuốc,
hoá chất sử
dụng trong quá
trình nuôi để
cá tra thịt
trắng. Chúng
tôi xin có
những lưu ý
sau:
* Việc sử
dụng các chế
phẩm sinh học
trong quá
trình nuôi cá
tra nhằm cải
tạo môi trường
nuôi là một
biện pháp kỹ
thuật cần
khuyến khích.
Tuy nhiên, nếu
những vi sinh
này có nguồn
gốc nước mặn
mà cho vào
nước ngọt thì
hiệu quả không
cao, hoặc khi
ao nuôi thay
nước thường
xuyên hay nuôi
đăng quầng thì
không hiệu quả
(nếu không nói
là lãng phí).
* Một số
thuốc có chứa
các chất hỗ
trợ chức năng
của gan
(Sorbitol...)
về nguyên lý
thì không có
trở ngại, tuy
nhiên, vì chưa
có những
nghiên cứu
khoa học chứng
minh nên khi
dùng cần cân
nhắc.
* Một loại
hóa chất có
tên là Pond
Oxygen dạng
hạt khi rải
vào ao nhằm
cung cấp oxy
cho tầng nước
ở đáy ao, là
giải pháp tốt
cho các ao
nuôi có trở
ngại trong
biện pháp thay
nước và giúp
cho quá trình
Nitrat hoá các
chất hữu cơ dư
thừa dưới đáy
ao.
Để đạt kết
quả khả quan
ngoài các vấn
đề đã giới
thiệu phần
trên. Các hộ
nuôi cá cần
lưu ý: nên sử
dụng nguồn
giống sạch
bệnh và tuân
thủ các quy
trình kỹ
thuật.
Vương Học
Vinh - Giảng
viên Thủy sản, Trường Đại
học An Giang -
KHCNAG, 4/2005
Cách làm trắng thịt cá tra
Một nghiên cứu mới của trại giống Minh An, tỉnh Vĩnh Long, vừa đưa ra những biện pháp kỹ thuật để làm thịt cá tra từ vàng chuyển thành trắng. Thông thường, để thịt cá tra trắng, người nuôi phải thay nước thường xuyên. Tuy nhiên, biện pháp này cho kết quả không đồng đều ở các hộ khác nhau và...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.