Nuôi tôm trên vùng đất cát và những vấn đề cần quan tâm
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Nuôi
tôm trên vùng đất cát và những vấn đề cần quan tâm
Nuôi
tôm trên vùng đất cát và những vấn đề cần quan tâm
Ðể
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và
xuất khẩu về số lượng và chất lượng sản phẩm thuỷ
sản, chủ trương của Bộ Thuỷ sản phát triển đa dạng hoá
thuỷ vực, đối tượng, phương thức và loại hình nuôi thuỷ
sản, đồng thời chỉ đạo quán triệt công tác quản lý an toàn
vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng, bảo quản nguyên liệu
sau thu hoạch đến chế biến ra thành phẩm.
>Phát
triển nuôi tôm trên cát đã mở ra một hướng đi mới trong nuôi
trồng thuỷ sản đối với các tỉnh nghèo tiềm năng đất đai,
đặc biệt là các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, để đầu tư phát
triển loại hình nuôi mới này, cần có sự xem xét đánh giá
một cách toàn diện, đặc biệt coi trọng sự phát triển bền
vững (môi trường với nuôi trồng thuỷ sản).
Qua
khảo sát tình hình nuôi tôm trên cát ở 5 tỉnh miền Trung:
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi và Ninh
thuận, cho thấy, tốc độ phát triển khá nhanh. Năm 1999 nuôi tôm
trên cát được bắt đầu từ một gia đình ở huyện Ninh Phước,
tỉnh Ninh Thuận với diện tích 0,5 ha, đến năm 2002 diện tích
nuôi tôm đã lên tới hơn 300 ha/14.000 ha bãi cát có khả năng phát
triển.
Ao nuôi tôm được thiết kế hình vuông hoặc chữ nhật, có diện
tích từ 2000 - 5000 m3, được giữ nước bằng vật
liệu chống thấm. Tuỳ quy mô và chất lượng mà ao nuôi tôm xây
dựng với suất đầu tư không giống nhau (có nơi 300 - 500 triệu
đồng/ha, song có nơi chỉ đạt 28 triệu đồng/ha), chế độ chăm
sóc nuôi dưỡng cũng khác nhau (tùy thuộc nhận thức và túi
tiền của nhà sản xuất), nên năng suất và giá thành tôm nuôi
không giống nhau. Có cơ sở năng suất đạt 5 - 6 tấn/ha vụ, lãi
hàng trăm triệu đồng, song cũng có cơ sở mức lãi chỉ đạt vài
ba chục triệu, thậm chí những cơ sở mới sản xuất lần đầu
không có lãi. Nhìn chung, nuôi tôm trên vùng cát, đa số là sản
xuất nhỏ, diện tích nuôi còn manh mún, thiếu quy hoạch, người
dân gặp không ít khó khăn trong việc xây dựng cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là hệ thống cấp nước. Trang thiết bị cho
sản xuất ở nhiều cơ sở còn quá thô sơ, cùng với sự thiếu
hụt kiến thức và kinh nghiệm của người nuôi tôm, là nguyên
nhân cơ bản hạn chế năng suất và sản lượng tôm nuôi.
Nuôi tôm trên cát có những lợi thế cơ bản là
: ao được giữ nước bằng vật liệu chống thấm nên việc
xử lý đáy ao sau thu hoạch và trước khi thả giống dễ dàng,
triệt để, giảm thiểu tối đa sự ô nhiễm môi trường nước
do phân huỷ các chất thải; Xiphông đáy trong quá trình chăm sóc
tránh được sự lắng đọng các chất hữu cơ trong ao nuôi,
bảo đảm môi trường nước luôn trong sạch; Thu hoạch tôm nuôi
trên cát đơn giản và triệt để hơn ao đất (vì bờ ao không có
hang hốc); Có màng chống thấm nên nước không ngấm sâu vào lòng
đất nên thực chất dạng nuôi này đã góp phần làm giảm xói
mòn ven biển, tăng thêm sự chắc chắn cho đới ven bờ. Nuôi tôm
trên cát đã làm thay đổi bộ mặt của một số vùng cát hoang
mạc, các ao tôm làm tăng độ ẩm không khí, từ trồng cây
muống biển giữ bờ ao, tiến tới trồng cây lâm nghiệp, phát
triển mô hình rừng - tôm cùng với phát triển khu vực dân sinh
kết hợp bảo vệ an ninh quốc phòng.
Nuôi
tôm trên cát là loại hình nuôi mới, cần thiết phải có sự nhìn
nhận và đánh giá đúng mức về giác độ quản lý môi trường
bền vững, làm cơ sở cho việc định hướng phát triển sản
xuất lâu bền.
+
Khai thác nước ngầm cho nuôi tôm là vấn đề cần được xem xét
kỹ lưỡng. Ðộ muối thích hợp cho sự phát triển qua từng
giai đoạn của tôm nuôi: tháng thứ nhất 25 - 30%o; tháng thứ hai
18 - 25%o; tháng thứ ba 15 - 18%o; tháng thứ tư 20 - 30%o; Mực nước
ao khi thả giống là 0,8 - 1,0 mét, tăng dần và bảo đảm mực nước
1,4 - 1,5 mét trở lên. Các chỉ tiêu trên là căn cứ để người
nuôi điều chỉnh độ muối thích hợp và tính toán lượng nước
ngọt cần thiết phải cấp cho ao
nuôi.
Khái tính lượng nước cần cho 1 ha ao nuôi tôm thương phẩm (lấy
mực nước trung bình sâu 1,4 mét ):
- Lượng nước cấp cho ao nuôi 10.000 m2 x1,4 = 14. 000 m3
- Nước bơm bổ sung (2 tuần/1lần cấp 20% lượng nước - 16 tuần
nuôi)
(14.000 m3 x 20%) x 8 lần = 22.400 m3
- Dự phòng thay nước khi có sự cố 50% lượng nước cấp
(14000 + 22.400) x 50% = 18.200 m3
- Tổng khối lượng nước cho 1 ha nuôi trong 1 vụ là :
14.000 m3 + 22.400 m3 + 18.200 m3 = 54.600 m3
Trong
đó: 30 - 50% nước ngọt
Nếu
nuôi tôm 1 vụ thì lượng nước ngọt cần từ 16.380 - 27.300 m3.
Lượng nước ngọt cho nuôi tôm 2vụ/ năm cần từ 32.460 -
54.600 m3
.
Nếu
lạm dụng việc sử dụng nước ngầm ở các giếng khoan, khai thác
nước ngầm quá mức có thể dẫn đến tình trạng lún sụt địa
tầng, tăng thâm nhập mặn, ảnh hưởng trực tiếp tới phát
triển cây trồng nông nghiệp và dân sinh trong vùng .
+
Hiện nay, nuôi tôm trên cát còn mang tính tự phát, đa số người
nuôi tôm thiếu kinh nghiệm về quản lý môi trường trong nuôi
trồng thuỷ sản nên hiện tại việc xả thải nước ao nuôi tôm
còn tuỳ tiện. Có cơ sở xả thải trực tiếp ra khu vực ven
biển, cạnh nguồn nước cấp, là nguyên nhân lây nhiễm bệnh
theo nguồn nước. Nhiều cơ sở xả nước thải ao nuôi ngay trên
bờ ao, là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước
ngầm.
+
Nuôi tôm trên cát phát triển mạnh trong bối cảnh thiếu quy
hoạch, địa phương chưa có các quy định cụ thể, dễ dẫn đến
tình trạng rủi ro: rừng phòng hộ sẽ bị thu hẹp, là khu vực
thường xuyên có bão cát, góp phần làm tăng nhanh tốc độ cát
lấn sâu vào đất liền.
+
Một số cơ sở do thiếu kinh nghiệm, đặt vị trí ao nuôi tôm
tại khu vực nhiều gió cát,không có rừng che chắn nên dẫn đến
tình trạng ao nuôi và hệ thống cấp nước bị vùi lấp nhanh.
Thời gian sử dụng quá ngắn so với kinh phí đầu tư.
Xoá
đói giảm nghèo cho người dân vùng bãi ngang là một trong những
vấn đề bức xúc được Chính phủ hết sức quan tâm. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên cát là một trong những
biện pháp quan trọng. Ðể nuôi trồng thuỷ sản vùng cát phát
triển bền vững, có tính chiến lược lâu dài, đòi hỏi phải
có các bước đi cụ thể, trong đó quy hoạch vùng nuôi chiếm
vị trí hàng đầu; Trên cơ sở quy hoạch, các địa phương lập
các dự án đầu tư phát triển (nuôi trồng thuỷ sản trên cát),
từng bước xây dựng thí điểm các mô hình quản lý dựa trên
cơ sở cộng đồng để khai thác có hiệu quả và bền vững
nguồn tài nguyên đất cát.
ưu
tiên phát triển nuôi tôm trên cát tại những vùng "hoang
mạc", nhằm cả hai mục đích phát triển kinh tế và cải
thiện môi trường (tăng độ ẩm không khí, phát triển trồng
rừng).
Ðối
với dự án phát triển vùng nuôi tôm sú tập, điều kiện tiên
quyết là phải có nguồn nước ngọt được cung cấp từ các
hồ chứa, sông, suối. Nếu khu vực chỉ có nguồn nước ngầm
duy nhất, cần thiết phải có quy hoạch chi tiết phân vùng sản
xuất các đối tượng nuôi cho phù hợp: một phần diện tích
cho nuôi tôm (cân đối với lượng nước ngầm), phần còn lại
nuôi các đối tượng thuỷ sản chịu mặn khác như một số loài
cá biển và nhuyễn thể ăn thức ăn trực tiếp như ốc hương...
Người nuôi phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc quy trình
kỹ thuật mà Bộ Thuỷ sản đã ban hành (từ khâu chọn vị trí
ao đầm, hệ thống cấp, thoát và xử lý nước, đến các khâu
chăm sóc nuôi dưỡng và thu hoạch)
Vùng
ven biển miền Trung là nơi phân bố nhiều đối tượng thuỷ
sản có giá trị như tôm sú, nhuyễn thể và một số loài cá
biển. Khu vực bãi ngang
tiềm năng đất đai nghèo, để phát triển nuôi trồng thuỷ
sản trên cát, đòi hỏi phải có sự trợ giúp từ phía Chính
phủ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đào
tạo nâng cao kiến thức về kỹ thuật nuôi và bảo vệ môi trường
sinh thái,
chuyển tải
thông tin tới người dân về các chính sách, các quy định có liên
quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển nuôi
trồng thuỷ sản bền vững
Nguyễn Thị Phương Lan - Vụ KHCN, Tạp chí KHCN TS, 7/2003
Nuôi tôm trên vùng đất cát và những vấn đề cần quan tâm
Ðể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu về số lượng và chất lượng sản phẩm thuỷ sản, chủ trương của Bộ Thuỷ sản phát triển đa dạng hoá thuỷ vực, đối tượng, phương thức và loại hình nuôi thuỷ sản, đồng thời chỉ đạo quán triệt công tác quản lý an toàn vệ sinh thực...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.