Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Nuôi bào ngư
Nuôi bào ngư
Hiện có 3 dạng hình nuôi bào ngư: nuôi lồng trong bể xi măng,
nuôi lồng treo bè ngoài biển, nuôi thả đáy trên bãi đá, rạn
san hô dọc bờ biển.
Nuôi bằng lồng trong bể xi măng
- Lồng nuôi hình chữ nhật bằng nhựa có lỗ, kích thước 50 x 40
x 30 cm, treo trong bể xi măng hoặc xếp trồng lên nhau cách đáy 20
cm. Bể xi măng hình chữ nhật diện tích 10 x 2 x 1 m, có mái che
nắng, xung quanh để trống, trong đó có một hộc nhỏ để lọc nước
biển chảy tuần hoàn: nhiệt độ 26 – 30 C, độ mặn 30 - 35 phần
ngàn,
độ pH = 7,6 - 8,7, ôxy hoà tan 5 ml/lít.
- Cho ăn: dùng rong mơ thái vụn 1cm hoặc rong câu chỉ vàng, 3 - 4
ngày cho ăn 1 lần và cho ăn dư thừa, với hệ số 16:1. Tạo dòng
nước luân chuyển tuần hoàn trong bể với tốc độ 10 lít/phút
để kích thích bào ngư ăn và sinh trưởng. Hàng ngày thay 20 – 30
cm nước trong bể, vớt xác chết, thức ăn thừa trong lồng. Hàng
tháng thay 100% nước, thay lồng và chuyển sang bể nuôi mới.
- Mật độ nuôi: 60 - 100 con/lồng kích cỡ 100 mm trở lên. Khi bào
ngư nuôi đạt kích thước 20 – 25 mm thì san lồng nuôi với mật
độ 30 con/lồng.
Nuôi bằng lồng treo bè ngoài biển
- Vị trí nuôi: bào ngư nuôi ở vùng tương đối kín gió, không
có sóng lớn (không làm hỏng lồng nuôi và bè), độ mặn ổn định
30 – 35 0/00, xa cửa sông, không có nước ngọt chảy vào và có
dòng chảy lưu thông, độ sâu 6 – 8 m.
- Lồng nuôi: sử dụng lồng nuôi hình chữ nhật bằng nhựa có
lỗ (3 – 4 mm), kích thước 50 x 40 x 30 cm có dùng móc nhựa gài
nắp để tiện cho việc kiểm tra và cho ăn. Lồng được treo trên
bè nổi cách nhau 0,5 m và ở độ sâu 2 – 5 m.
- Bè nuôi: có thiết kế và quy cách như bè nuôi tôm hùm. Có thể
nuôi tôm hùm ở dưới, nuôi bào ngư ở lớp nước trên. Bè nuôi
thiết kế di động để có thể di chuyển khi mưa bão, sóng lớn.
- Mật độ nuôi 60 - 100 con/lồng (cỡ 10 mm trở lên). Khi bào ngư
đạt 20 – 25 mm san lồng nuôi mật độ 30 con/lồng.
-Cho ăn: rong câu chỉ vàng, rong mơ thái vụn, 3 - 4 ngày cho ăn 1
lần và cho ăn dư thừa.
- Vệ sinh lồng nuôi: sau 1 tuần nuôi, dùng bàn chải cọ kỹ lồng
nuôi, diệt trừ địch hại, vớt thức ăn thừa, xác bào ngư
chết... Hàng tháng thay lồng nuôi mới.
Nuôi thả đáy trên bãi đá dọc bờ biển
- Vị trí nuôi: nuôi bào ngư ở vùng trung triều có độ sâu khi
triều xuống cạn còn 1 – 2 m nước, độ mặn cao và ổn định
30 – 35 0/00, dòng chảy tương đối (5 m/giây), không có nước
ngọt chảy vào, xa cửa sông. Đáy đặc biệt là đá tảng hay
rạn san hô để bào ngư ẩn trốn và nhiều tảo, rong...
- Thức ăn: ngoài các loại rong, cần rải định kỳ rong câu chỉ
vàng (5 - 7 ngày/lần) để tăng cường thức ăn cho bào ngư, rải
vào 4 - 5 giờ chiều tối để bào ngư ra ăn.
-Cách thả giống: trước khi thả phải ương bào ngư giống trong
bể xi măng từ 3 – 5 mm cho tới khi bào ngư được 15 mm thì thả
giống. Thả vào lúc 6 – 9 giờ sáng. Để bào ngư bám vào bản
tảo rồi thả xuống vùng nuôi, sau đó bào ngư phát tán ra xung
quanh.
-Mật độ nuôi: 15 - 20 con/lồng. Trước khi thả phải lặn bắt
hết địch hại như sao biển, bạch tuộc... Thả thức ăn rong
tảo xuống, kiểm tra định kỳ tỉ lệ sống chết của bào ngư.
- Sau 9 - 10 tháng nuôi bào ngư đạt kích thước thương phẩm 5 –
6 cm (30 - 35 con/kg) thì thu hoạch.
Nông thôn ngày nay, 14/12/2004
Các phương thức nuôi bào ngư
1. Nuôi theo kiểu lập thể ở trên đất liền
1.1
Lồng nuôi:
Do các lồng nuôi lỗ hình vuông có kích thước 60 x 40 x 10 cm,
có nắp đậy xếp chồng lên nhau mà thành, mật độ nuôi 50
con là chính (thông thường mật độ thả nuôi có giới hạn là
không quá 30 con).
Do trong quá trình nuôi trước hết phải tách
các lồng nuôi ra để thức ăn vào không những gây bất tiện,
mà còn rất lãng phí sức người và thời gian. Sau khi nghiên
cứu cải tiến, ở một mặt bên của lồng nuôi có làm một
nắp cửa, làm cho dễ đóng mở và làm cửa cho thức ăn. Do đó,
khi cho ăn có thể bớt việc phải tách riêng lồng, tiết kiệm
nhiều thời gian, qua nhiều lần cải tiến, trong lồng có thể
tăng thêm nhiều không gian sống, làm giảm tỷ lệ chết do bị
tách rời gây nên.
Qua
cải tiến vào năm 1997, sau khi tạo ra lồng nuôi lỗ tròn 80 x
50 x 10cm, ở một bên lồng đặt cửa tự động, dễ đóng
mở, đồng thời tiện cho ăn, nhưng tuỳ theo sự sinh trưởng
của cá thể, phải kịp thời giảm mật độ để tiện cho
việc nuôi; sau cải tiến mật độ nuôi của mỗi lồng bình quân
có thể đạt tới 80 con, mật độ nuôi theo kiểu nuôi truyền
thống là 50 con. Sau khi so sánh tỷ lệ lớn ở các tầng nuôi
theo kiểu lập thể, phát hiện tỷ lệ lớn ở tầng thấp
nhất là tốt, số tầng nuôi thông thường có thể đạt 12
tầng, tỷ lệ lớn ở các tầng cũng có sự khác nhau chút ít,
hiệu quả nuôi của tầng càng thấp càng tốt, có một số
bể nuôi đặt ngoài nhà do chiếu sáng tốt, đồng thời cũng
cung cấp không ít thức ăn tự nhiên, nên tỷ lệ lớn ở
tầng đỉnh cũng tương đối cao. Từ đó cho thấy khi mà tỷ lên
sống của phương thức nuôi lập thể đạt tới 70 -
80%, tức là có thể thu được lợi nhuận nhưng khi gỡ
ra để đo, thường có thể làm bào ngư bị thương nhưng do nhân
tố con người gây nên mà không phải là nuôi không thoả đáng
hoặc chất nước khác không tốt gây nên, nguyên nhân tỷ lệ
sống của bào ngư khi nuôi theo phương thức lập thể không
cao, thường thường là do thiếu ôxy gây lên.
1.2
Nuôi lớn
Trong
thời gian nuôi cứ mỗi tuần cho ăn một lần, người cung ứng
thức ăn (rong câu) sau khi vận chuyển đến chỗ nuôi, đổ vào
trong bể xi măng để rửa sạch bằng nước, chờ để cho vào
lồng nuôi, tiếp đó tháo cạn nước ở bể nuôi, lại dùng vòi
nước phun rửa. Bể nuôi rửa xong, sau khi mở nắp lồng nuôi
để cho thức ăn, tiếp đó cho đậy nắp lồng, chờ lần lượt
bỏ hết rồi hãy cấp nước.
Nếu
có dư bể nuôi, có thể quản lý bằng một loại phương pháp
khác. Tức là trước hết rửa sạch bể trống, sau khi cấp nước
sẽ dùng palăng móc kéo lồng nuôi đã xếp thành khối lên và
lần lượt cho thức ăn rong câu, rồi móc kéo đưa vào bể nuôi
dự bị. Chờ sau khi giải quyết xong toàn bộ, thì có thể tháo
cạn nước ở bể nuôi, rồi phun rửa, dự phòng để chuyển
đặt lồng nuôi của bể khác. Cách này có thể tránh cho bào
ngư vì thời gian rời khỏi mặt nước quá dài mà ảnh hưởng
đến độ lớn. Tỷ lệ nuôi sống đạt 80 -
95%.
Thời gian nuôi bình quân mỗi tháng cỡ loại thu
hoạch đạt được 60 -70
con/kg, hằng năm mỗi tsưbô (đơn vị đo diện tích của Nhật
Bản, bằng 3,3m2. H.T) có thể sản xuất được 54 cân
Ðài Loan, ước đạt từ 5 -6
lần nuôi đơn tầng mặt phẳng.
Khi
tiến hành nuôi trên đất liền, nước biển được ống hút hút
trực tiếp từ ngoài biển vào, nhưng nên có ao trữ nước,
rồi lại dùng ống hút hút nước từ ao trữ nước ra, chờ
sau khi dẫn nước vào bể nuôi, rồi để cho nước biển qua các
kênh dẫn đưa nước vào các bể nhánh, nếu khoảng cách tương
đối xa, khi lưu lượng nước lớn có thể dùng máy bơm và van
khống chế để điều tiết lưu lượng nước, ngoài ra để tránh
việc bơm vào vi sinh vật hoặc động vật tạp trong nước
biển, thì trước hết cũng có thể tiến hành sử lý nước
ban đầu.
Rau câu nuôi bào ngư non cần phải rửa sạch và thái
nhỏ, tránh gây nên chất nước không tốt, rồi mới cho rau câu
đã thái nhỏ vào bể nuôi.
2.
Nuôi ở dải giữa triều
Nuôi
ở dải giữa triều là sự lợi dụng độ chênh giữa đường
triều cường và đường triều cạn bờ đá, tức là lập ao
bể nuôi ở nơi triều có sóng va đập. Cấu tạo của ao bể
nuôi là dùng máy móc đào các phiến đá ở dải giữa triều
xong, bốn xung quanh xây bao bằng xi măng tạo nên, thông thường
mạn giáp biển của bờ ao bể nuôi có lỗ thoát nước để
thay đổi nước biển khi triều lên, xuống và sóng biển vỡ
bờ, đồng thời tăng thêm ôxy và gặp khi nhiệt độ cao, mỗi
ao bể cần tăng cường sục khí để tăng hàm lượng ôxy.
Ðộ
sâu của ao nuôi được quyết định bởi độ cao của đường
triều, thông thường độ sâu từ 2 -
3m khi triều cường bờ ao bể nuôi cao hơn mặt nước 1m,
khi triều cạn mức nước sâu trong ao bể nuôi giữ ở mức 2m
là thích hợp. Bề dày của bờ ao bể nuôi khoảng 1,5 -
2m. Ðáy ao bể nuôi trải lớp đá củ đậu hoặc đá
phiến để làm chỗ cho bào ngư bám. Việc nuôi bào ngư ở
dải giữa triều thông thường hàng năm tu sửa ao bể nuôi từ
tháng 3 đến tháng 6. Khi tu sửa trước hết phải bịt kín lỗ
nước vào.
Sau
khi hút cạn nước bể trong ao nuôi, chỗ tích nước vãi vôi
sống và phơi nắng đáy ao khoảng một tuần lễ, đề phòng
trong thời gian nuôi ao nuôi bị lão hoá, sinh ra các loại bệnh.
Do đó chỉ cần sau khi tu sửa ao là có thể thả giống nuôi,
thông thường một tsưbô mật độ thả nuôi là 1.000 -
1.200 con giống. Trong thời gian nuôi, vì tốc độ lớn không
đồng nhất, nên phải tiến hành lựa chọn trong khoảng từ tháng
10 đến tháng 12, sau khi chọn lại thả bổ sung giống nhằm
bảo đảm sản lượng ổn định. Cách nuôi này, mỗi tuần
lễ cho ăn hai lần, mỗi lần mỗi tsưbô ném cho ăn 5 kg rau câu.
Khi bắt, dùng thợ lặn xuống đáy ao để bắt.
3.
Nuôi theo cách căng dây ở biển
Tìm nơi nuôi ở ngoài biển một cách thích hợp thả dây nổi, cho bào ngư giống cỡ 3 cm vào lồng nuôi, sau đó treo trên dây
nổi, nuôi ở nơi nước sâu từ 7 -10m, tầng nước nuôi 9m là tốt nhất, môi trường nuôi đòi hỏi hơi
nước chảy thuận tiện, độ trong tương đối lớn là thích hợp, đồng thời còn cần thích nghi điều kiện ánh sáng
yếu. Cách quản lý nuôi giống như nuôi ở dải giữa triều, công việc chủ yếu là định giờ cho ăn, cọ rửa lồng nuôi,
loại bỏ bào ngư bị bệnh, bị chết và địch hại tự nhiên.
Do bào ngư là loài nhuyễn thể có vỏ thuộc tính tiêu tốn ôxy, trong quá trình nuôi bào ngư cần kịp thời điều chỉnh mật
độ nuôi, lấy ví dụ cách nuôi theo kiểu dây nổi của Trung Quốc, trong trường hợp tốc độ dòng chảy thông thường là
30 -40 m3/giây, mật độ thả nuôi bào ngư giống loại 2 -3cm là 300 con/m2 loại 3 -4
cm là 150 con/m2, loại 4 -5 cm là 120 con/m2 là tương đối hợp lý, nếu có thể tăng
cường quản lý mùa thu thì tỷ lệ còn sống qua mùa đông có thể cao đến 97,3%, do không có cách nào để tập trung quản lý
theo cách thủ công, cho nên hiệu quả thấp, vì vậy, hiện nay ài Loan chưa nuôi theo cách này. Nuôi bào ngư theo kiểu này cũng
có thể dùng để nuôi trai ngọc.
4.
Nuôi bằng lồng lưới
Ðài
Loan chưa áp dụng lồng lưới để nuôi bào ngư, ưu điểm của nuôi bằng lồng lưới là tiết kiệm chi phí, giảm giá thành
và đề phòng việc phát sinh bệnh tật, nhưng thời gian nuôi tương đối dài, về kỹ thuật nuôi không có vấn đề,
vì cách nuôi loại này giá thành thấp là phương pháp nuôi lớn vừa kinh tế lại vừa thuận tiện. Phải lựa chọn vùng nước chảy
thuận tiện, hình thức và quy mô lồng lưới lại không cố định, có thể dùng lưới ny lông, thép không rỉ hoặc giỏ chất
dẻo làm thành từng tầng cho bào ngư sống về mặt quản lý định giờ cho ăn hoặc thức ăn nhân tạo, và định kỳ làm
vệ sinh vật bám trên lồng đối với bào ngư chết trong lồng, chất thải và thức ăn thừa, đều phải định kỳ quét
dọn, bảo đảm nước chảy thông suốt, nơi nhiều bão gió phải đặc biệt chống gió bão, chống sóng, đảm bảo an toàn.
Ngoài ra công tác quản lý phải tránh bị bắt trộm.
5.
Nuôi bằng lồng chìm
Cáchnuôi bằng lồng chìm thích hợp với vùng rạn đá, đặt lồngchìm ở vùng triều thấp dải giữa triều, khi triều lên hoặc
triều xuống, lồng chìm có thể lộ ra hoặc lộ ra một phần,đồng thời tiện cho việc quản lý hằng ngày. Khi triều lên,
mức nước sâu trên 2,5m trở lên, ở dải rạn đá lồi lõm khôngphẳng, trước tiên có thể dùng đá vụn san bằng phần đáy,
rồi chuyển vào lồng chìm. Bào ngư ở trong lồng lưới sắplớp trong lồng chìm, cũng có thể xếp chồng lên nhau, ở
giữa và xung quanh lồng có khoảng không gian nhất định đểtiện cho ăn và sự di chuyển của bào ngư, khi cần thiết ở
trên lỗ của nắp đậy và xung quanh lồng chìm dùng đá miếngđè chặt, làm cho lồng chìm càng vững chắc. Ðồng thời với
việc quản lý phải dọn sạch thức ăn thừa, hải miên vàsinh vật bám.
Nuôibằng lồng chìm có thể chia làm hai loại, một loại là lồngchìm lưới vây lấy khung lồng, một loại là lồng chìm vây lưới
xếp đá. Loại lồng chìm lưới vây lấy khung lồng dùng vậtliệu kim loại tạo thành khung lồng hình hộp chữ nhật diện
tích 2 -4m2, cao 0,8m,xung quanh lắp ráp áo lưới, trong lồng thả đá rạn cho bào ngư
bám và cố định lồng chìm, mặt trên để cửa cho ăn, lồngchìm đặt ở phía dưới đường thấp tiều của cao triều, nước
sâu 0,5 -0,6m. Ðặt lồng chìmvây lưới xếp đá ở nơi thấp triều của khu vực biển córạn đá, dùng đá xếp thành khối chữ nhật dài 6 -
8m, rộng 2,5m, cao 0,8m, xung quanh và trên mặt vây che bằngáo lưới kim loại, lấy đá rạn làm thành rạn bào ngư, áo lưới
kim loại có thể chống địch hại xâm nhập và việc chạytrốn khỏi lồng của bào ngư. Ðầu tư cho công trình nuôi bào
ngư bằng lồng chìm tương đối ít, rất linh hoạt, quy mô cũngcó thể tự điều chỉnh, tiện quản lý, tỷ lệ sống cao,
hiệu quả cao, có thể phát triển một cách vừa phải ở vùngbiển có điều kiện tốt.
Hà Trang
, Theo
Nuôi bào ngư của Hoàng Quý Trâm
(ÐàiLoan) - Tạp
chí KHCNTS 8/2002
Nuôi bào ngư trong bể chìm tại đảo
Nao Châu
(Quảng Đông, Trung Quốc)
Đảo Nao Châu thuộc Thành phố Trạm Giang, tỉnh Quảng Ðông, Trung Quốc là đảo núi lửa duy nhất tại tỉnh Quảng Ðông, đảo
có hình chữ nhật, chiều dài 10,47 km, chiều rộng 4,14 -6,94 km, đường biên chân đảo dài 43,99 km.
Ba phía
Bắc, Ðông, Nam của đảo Nao Châu đều là rạn đá ngầm và có sóng lớn rất thích hợp cho việc nuôi dưỡng bào ngư
Haliotis
diversicolor Reeve.
Bàongư Haliotis diversicolor nuôi tại đảo Nao Châu về chất lượng cũng như số lượng đều đứng hàng đầu tại tỉnh
Quảng Ðông.
Theo thống kê năm 1960, sản lượng cao nhất là 38.160 kg (năm 1936), cá thể lớn nhất có chiều dài 9,6 cm.
Từ những năm 70 lại đây, do khai thác bừa bãi dẫn tới nguồn tài nguyên cạn kiệt, đến năm 1995, sản lượng bào
ngư khai thác trong tự nhiên chỉ còn mấy chục kilogam, không những số lượng bào ngư giảm mà kích cỡ cũng nhỏ hơn trước,
mức cao nhất chỉ là 7,05 cm. Vì thế, vấn đề bảo vệ nguồn tài nguyên tự nhiên loài bào ngư
Haliotis diversicolor,
phát triển bào ngư nhân tạo càng trở nên cấp bách.
Ngư dân đảo Nao Châu trong quá trình thực hiện đã sử dụng bể chìm
để nuôi, tốc độ sinh trưởng nhanh.
Tại khu vực đá ngầm -nơi có thuỷ triều thấp, gió mạnh và biển động, có đặt các bể ngầm hình tròn có đường kính khoảng 1m, cao từ 0,6 đến
1m để tiến hành nuôi bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor
aquatilis Reeve). Mỗi bể thả nuôi khoảng 1.000 bào ngư
giống, cỡ trên dưới 2 cm, tuỳ mức độ sinh trưởng của bào
ngư có thể giãn thưa mật độ còn 500 con, tại tỉnh Giang Tô,
sau 6 -8 tháng nuôi dưỡng, bào
ngư đã đạt chiều dài trên 5 cm, tỉ lệ sống là 60%, mỗi
bể có thể đạt sản lượng bào ngư thương phẩm là 10 -
12 kg.
Cấu
tạo bể chìm nuôi bào ngư
Bể
được làm bằng đất đắp khung thép.
Ðường kính 1 -
1,1m, chiều cao của bể có thể là 0,3m; 0,45m; 0,6m; 0,8m
hoặc 1m
Ðộ dày của nắp bể và thành bể từ 5 -
8cm. Chính giữa nắm là một lỗ hổng có đường kính
20cm.
Tại đáy bể là hình chữ thập (+), tại bốn khoang
trống tạo bởi các cạnh của chữ thập, đặt những tấm
nhựa dày khoảng 3cm, sau đó đổ bùn loãng vào, trên bản
nhựa đục nhiều lỗ -đường
kính 1,6m. Hoặc có thể tại đáy bể phân thành 8 đến 9 lỗ
-đường kính 15cm, sau đó đặt
các tấm lưới vào 8 -9
khoang vừa nêu (chú ý: mắt
lưới có kích thước là 0,5 -1cm).
Giữa thân bể là một vòng các lỗ cấp, thoát nước có đường
kính 3cm, khoảng cách giữa các lỗ này là 10cm.
Trong
các bể chìm lắp hệ thống lưới cùng hình dạng của bể
(mắt lưới 0,5cm). Trong túi lưới đó đặt các cối nuôi bào
ngư cỡ nhỏ. Số cối nuôi phụ thuộc vào chiều cao của
bể chìm, thông thường là 4 -8
cối.
Phương
pháp sử dụng bể chìm
Ðặt
bể chìm tại bãi cá ven biển. Tại khu vực đá cao thấp không
đều có thể dùng đá vụn lấp phẳng. Các cối nuôi bào ngư
phải được sắp xếp sao cho giữa chúng vẫn có khoảng cách
nhất định để tiện việc cho ăn và không làm ảnh hưởng
tới sự di chuyển của bào ngư. Lưới bảo vệ phải buộc
chặt để phòng bào ngư lọt ra ngoài và ngược lại tránh không
cho sinh vật có hại từ bên ngoài lọt vào. Trên nắp bể
chặn một khối đá lớn để bể chìm, không bị xê dịch
mỗi khi sóng biển đánh mạnh.
Phương
pháp nuôi dưỡng bào ngư
Mật
độ thả nuôi
Ðối
với bể chìm có chiều cao là 1m, thời gian đầu có thể
thả nuôi từ 800 -1.000 con
cỡ 2 cm, tuỳ theo sự phát triển nhanh hay chậm của bào ngư
mà sau khoảng 2 tháng tiến hành phân thưa một lần, duy trì
mỗi bể 500 con nuôi cho tới khi thu hoạch.
Cho
ăn
Thức
ăn cho bào ngư gồm có gracilaria, laminaria, monostroma, ulva và
sargassum, trường hợp nếu cho bào ngư ăn rong biển thì
phải băm nhỏ, cứ 5 -7 ngày
lại cho ăn một lần, lượng rong được quyết định bởi
khả năng tiêu thụ của bào ngư nhiều hay ít, nhanh hay chậm.
Quản
lý
Cùnglúc tiến hành cho bào ngư ăn phải kết hợp làm sạch bể nuôi.Các loài cua có thể thâm nhập vào bể và ăn bào ngư con, vì
thế cũng phải kịp thời phát hiện để xử lý.
Thu hoạch
Sau 6 đến 8 tháng nuôi nhân tạo, bào ngư từ 2 cm đã đạt tới 5cm, lúc này có thể tiến hành thu hoạch, tỉ lệ sống là
60%. Bình quân một bể cho sản lượng bào ngư thương phẩm là 10 -12 kg.
Thái An, Ðại học Hải dương Trạm Giang - Trung Quốc, Tạp
chí KHCNTS 8/2002
GIÁO TRÌNH KỸ THUẬT NUÔI NHUYỄN THỂ - CHƯƠNG VI KỸ THUẬT NUÔI BÀO NGƯ
Bào ngư là loài có giá trị kinh tế bởi vì hàm lượng dinh dưỡng trong thịt của chúng rất cao. Bào ngư có khoảng gần 100 loài, tất cả đều thuộc giống Haliotis. Chùng có mặt ở nhiều vùng trên trái đất, một số loài hiện nay đang được nuôi như Haliotis disversicolor, H. asinina, H. oliva...
...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.