Phân lợn, một loại phân bón ao có hiệu quả trong hệ thống nuôi ghép các loài cá chép
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Phân lợn, một loại phân bón ao có hiệu quả trong hệ thống nuôi ghép các loài cá chép
Phân lợn, một loại phân bón ao có hiệu quả trong hệ thống nuôi ghép các loài cá chép
Giới thiệu
Nuôi trồng thuỷ sản bền vững là xây dựng hệ thống nuôi
gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và có hiệu
quả kinh tế. Việc tái sử dụng các chất thải hữu cơ
trong nuôi cá đáp ứng cả hai mục đích là làm sạch môi
trường và giảm chí phí để sử dụng phân hoá học
(thông thường chiếm khoảng hơn 50% tổng chi phí). Tuy
nhiên, việc sử dụng tuỳ tiện các loại phân bón trong
ao hồ nuôi cá có thể gây ô nhiễm môi trường. Bởi
vậy, người nuôi cần phải biết các tiêu chuẩn sử
dụng chất thải này qua các thông số hoá lý của nước
ao hồ để đảm bảo tỷ lệ sống và tăng trưởng cao
của cá
Nguyên liệu và các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại trại nuôi cá của đại
học Nông nghiệp Punjab, Ludhiana trong thời gian 270 ngày
(từ tháng 9/1997 đến 6/1998). Phân
lợn đã được sử dụng trong nuôi ghép các loài thuộc
họ cá chép như một nguồn phân bón tốt với mức
18T/ha/năm và 36 T/ha/năm cho một đợt nuôi khoảng 270 ngày
mà không cần cho ăn thức ăn bổ sung. Quan sát cho thấy
phân lợn không làm biến đổi các thông số hoá sinh
của nước như độ pH, mức ôxy hoà tan và độ kiềm. Hàm
lượng các chất dinh dưỡng trong nước (photphat và
nitrat) trong các ao hồ được bón phân lợn cao hơn các
ao đối chứng (không bón phân,
chỉ cho ăn bổ sung). Ngoài ra, mật độ phù du sinh vật
cũng cao hơn đáng kể. Tốc
độ tăng trưởng của cá Catla, cá trôi ấn Ðộ cũng
cao hơn rõ rệt. Cá Mrigal và cá chép thường trong ao được
bón phân ở mức 18 t/ha/năm cũng lớn nhanh, nhưng cá
trắm cỏ lại lớn nhanh hơn trong ao nuôi đối chứng
với ao có bón phân.
Chuẩn
bị bể: Thí nghiệm được thực hiện với bể xi măng diện tích
20m2, độ sâu
1m. Dưới đáy các bể có một lớp đất mỏng. Tất
cả các bể được lắp đặt đường ống cấp nước và
thải nước.
Bón
phân cho bể: Phân lợn được sử dụng ở mức 18 (PM18) và 36 (PM36)
t/ha/năm, tương ứng với mức 34,5 và 69,0 g/m2/tuần
trong suốt quá trình thử nghiệm. Cá được nuôi theo hai
cách. Cách thứ nhất là cho ăn đối chứng, không bón phân
vào ao và cá được cho ăn thêm thức ăn chứa 50% cám
gạo và 50% bánh dầu mù tạc đã khử dầu ở mức
chiếm 2% sinh khối cá. Cả hai phương pháp bón phân và
đối chứng được tiến hành 3 lần.
Thả
giống: Mỗi bể nuôi thả các loài cá bột khác nhau (2 con/m2):
số cá thả gồm 8 cá Catla (Catla
catla), 10 cá trôi ấn (Labeo
rohita), 8 Mrigal (Cirrhinus
cirrhosus), 8 cá chép thường (Cyprinus
carpio) và 6 cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon
idellus) vào tháng 9 năm 1997. Trọng lượng của các loài
cá tại thời điểm thả giống là cá Catla: 3,5-5,0 g; cá
trôi ấn: 5,0-12.0 g; cá Mrigal: 2,5-3.0
g; cá chép: 2,0-2,7 g và cá trắm cỏ: 2,2-2,7 g.
Quan
sát số liệu: Hằng tháng nước trong bể được phân tích
vào khoảng 7-8 giờ sáng để đo các thông số lý
hoá gồm: nhiệt độ, độ pH, CO2 tự do, kiềm
phenolphtalein, kiềm methyl da
cam
và các loại kiềm, lượng photphat hoà tan trong nước và
nitrat-nitơ. Hằng tháng cũng tiến hành phân tích số lượng
và chất lượng phù du thực
vật và phù du động vật. Mẫu cá được theo dõi hằng
tháng, ghi lại tốc độ tăng trưởng và ước tính
tổng trọng lượng (TWG) và tỉ lệ tăng trưởng đặc
biệt (SGR) theo công thức:
Trọng lượng cá lần cuối - Trọng lượng cá ban đầu
TWG = Trọng lượng cá ban đầu
ln (Trọng lượng cá lần cuối)
In
(Trọng lượng cá ban đầu)
SGR
= x 100
Số
ngày nuôi
(ln
: lôgarit tự nhiên)
Thảo
luận
Trong
270 ngày nuôi, nhiệt độ nước dao động từ 12 đến 35oC.
Sự biến động của các thông số lý - hoá của nước
tại các ao nuôi khác nhau thể hiện trong bảng sau:
|
Các
hình thức ao nuôi |
Các
thông số |
Ao đối chứng |
Ao
bón phân lợn ở mức 18 T/ha/năm |
Ao
bón phân lợn ở mức 36 T/ha/năm |
Nhiệt
độ (oC) |
23.30 2.39 a
(13-35) |
22.80 2.36 a
(12-35) |
22.80
2.38a
(12-35) |
pH |
8.61 0.13 a (8.10-9.20) |
8.61 0.14 a
(8.03-9.24) |
8.47
0.11a
(8.13-8.94) |
Mức
ôxy hoà tan (mg/l) |
9.28 0.74 a
(6.25-13.50) |
9.97
0.80a
(6.25-14.00) |
9.70
0.80a
(6.25-13.60) |
Mức
CO2 tự do (mg/l) |
16.40 16.40 a
(0-164) |
4.00
4.00a
(0-40) |
10.60
5.49a
(0-42) |
Ðộ
kiềm phenolphthalein
(mg/l) |
78.30 8.92 a
(0-98) |
79.10
10.16a
(0-120) |
59.80
13.36a
(0-100) |
Ðộ
kiềm metyl- da cam (mg/l) |
201.00 15.56 a
(136-268) |
187.80
15.32a
(128-264) |
177.70
17.54a
(100-265) |
Tổng
độ kiềm (mg/l) |
279.30 19.32 a
(156-350) |
266.90
19.98a
(144-331) |
237.60
22.15 a
(140-347) |
Nitrat-
nitơ (mg/l) |
1.32 0.22 a
(0.44-2.45) |
1.06
0.18a
(0.70-2.45) |
1.18
0.17a
(0.60-2.45) |
Lượng photphat hoà tan (mg/l) |
1.31 0.31 a
(0.07-2.65) |
1.59
0.68a
(0.81-3.63) |
3.57
0.95a
(0.94-9.38) |
Các
thông số lý hoá cuả nước đóng vai trò đặc biệt
trong sinh học và sinh lý cá. Trong nghiên cứu này, các
thông số lý hoá của nước trong cả hai hình thức nuôi
đều duy trì trong khoảng cho phép đáp ứng yêu cầu nuôi.
Sự khác nhau giữa các thông số lý hóa ở hai phương
pháp nuôi này là không lớn. Ðiều này gợi ý rằng
nếu bón một lượng phân lợn lớn hơn (36 T/ha/năm) cũng
không có ảnh hưởng xấu tới các thông số lý hoá
của nước. Thậm chí trong trường hợp có một lượng
chất hữu cơ đáng kể chiết ra từ phân lợn cũng không
làm giảm nồng độ ôxy hoà tan trong nước. Nồng độ
nitrat-nitơ trong nước không khác nhau đáng kể giữa các
phương pháp nuôi. Tuy nhiên, lượng photphat hòa tan trong
nước ở phương pháp nuôi có bón phân cao hơn trong phương
pháp nuôi cho ăn thêm. Ðiều này có lẽ là do sự có
mặt của photphat trong phân lợn.
Ngoài
ra, lượng thực vật nổi trong ao PM36 là cao nhất,
tiếp đó là ao PM18 và cuối cùng là ao đối chứng, nhưng
sự khác biệt không nhiều lắm.
Năng
suất sinh học của bất kỳ cơ thể thuỷ sinh nào cũng
được đánh giá chung qua chất lượng và số lượng
của sinh vật phù du vốn là thức ăn tự nhiên của cá.
Chất thải động vật làm tăng khả năng sinh học
của ao hồ qua các cách khác nhau dẫn tới sự tăng
sản lượng cá. Trong nghiên cứu này, các thông số
sinh học của nước bao gồm các sinh vật phù du và các
nhóm tảo lam và tảo lục (riêng tảo Silic ít hơn
nhiều trong ao có bón phân) và lượng phù du động
vật trong ao bón phân lợn cao hơn nhiều trong ao đối
chứng. Ðiều này có thể do lượng photphat có trong phân
lợn hoà tan trong nước cao hơn. Tuy nhiên, không có sự
khác biệt lớn về sức sản xuất của ao hồ giữa
hai mức bón phân lợn. Sức sản xuất của phù du sinh
vật trong các hồ tái sử dụng phân lợn cao góp phần
tạo năng suất của ao tiếp tục cao trong một thời
gian dài. Phân lợn cung cấp cho phù du động vật
nguồn thức ăn bổ sung từ vi khuẩn có từ nguồn phân
hữu cơ. Thành phần của phân lợn ảnh hưởng tới
cấu trúc quần thể sinh vật phù du, trong số thực
vật phù du, tảo lam là nhóm chiếm ưu thế, tiếp theo
là tảo lục, còn tảo silic có rất ít. Trong số phù
du động vật, luân trùng là nhóm nhiều nhất, theo sau
là lớp phụ chân chèo và lớp râu
ngành ở tất cả
các loại hình nuôi.
Mức
tăng trưởng của các loài cá nuôi khác nhau như sau:
Ðối
với cá Catla và cá trôi ấn, mức TWG, SGR ở ao sử
dụng phân lợn PM18 và PM36 cao hơn nhiều so với nuôi
trong ao đối chứng.
Trong khi đó đối với cá Mrigal (Cirrhinus
cirrhosus) và cá chép thường (Cyprinus carpio)
mức TWG và SGR trong ao đối chứng lại cao hơn nhiều và
ao PM18 cao hơn ao PM36. Sức tăng trưởng cao của các
loại cá chép này trong ao bón phân lợn có thể là do
trong các ao này có nhiều nguồn thức ăn hơn.
Ngoài ra,
một vài loại cá chép thậm chí còn nuốt thẳng các
mảnh không tiêu hoá được có lẫn trong các loại phân
bón. Các mảnh thức ăn này tuy có giá trị dinh dưỡng
thấp nhưng các vi sinh vật bám vào chúng lại có lượng
protein cao. Hơn nữa, việc cho ăn trực tiếp phân lợn
có thể làm cho cá chép tăng trưởng mạnh hơn vì hơn
70% lượng thức ăn của lợn vẫn chưa được tiêu hoá
và giàu dinh dưỡng.
Tuy nhiên, phân lợn ở cả hai
mức sử dụng trong nghiên cứu này lại không có kết
quả tốt như dự kiến đối với sự tăng trưởng
của cá trắm cỏ vì chúng là loại ăn cỏ.
Naga,
The ICLARM Quaterly (Vol.25, no.1) January- March 2002
Phân lợn có hiệu quả trong nuôi ghép các loài cá chép
Việc tái sử dụng các chất thải hữu cơ trong nuôi cá đáp ứng cả 2 mục đích là làm sạch môi trường và giảm cho phí để sử dụng phân hóa học (chiếm khoảng hơn 50% tổng chi phí). Tuy nhiên, việc sử dụng tùy tiện các loại phân bón trong ao hồ nuôi cá có thể gây ô nhiễm môi trường.
...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.