Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc
1.
Thời gian sinh sản
Sò
huyết là loài nhuyễn thể 2 vỏ thụ tinh ngoài, giới tính của
chúng có thể phân biệt dựa vào màu sắc của bộ phận sinh
dục, ở con cái là màu vàng cam, còn ở con đực bộ phận này có
màu vàng nhạt. Sò huyết thành thục và có khả năng sinh sản
khi được hai năm tuổi.
Thời gian sinh sản của chúng không
giống nhau nhất là khi được nuôi tại các vùng duyên hải khác
nhau. Ví dụ : Sò nuôi ở tỉnh Sơn Ðông có thời gian sinh sản
từ tháng 7 đến tháng 9, tỉnh Chiết Giang : tháng 7 -
10, Phúc Kiến : tháng 8 -11
và Quảng Ðông là tháng 8 đến tháng 12.
Trong
một năm, chúng có khả năng sinh sản nhiều lần. Trứng do con cái
đẻ ra sẽ được con đực thụ tinh, thời gian này kéo dài tới
15 -20 ngày. Trung bình một con cái
(chiều dài 3cm) một lần đẻ được 3,4 triệu trứng. Trứng đã
được thụ tinh sẽ nở trong môi trường nước biển, ấu trùng
sò huyết ban đầu sống bằng cách ăn các sinh vật phù du trong nước
biển, khi đã lớn hơn chúng di chuyển xuống sống ở tầng đáy.
2.
Chọn giống
2.1
Vùng biển
Sò
tự nhiên chủ yếu phân bố tại các vùng vịnh vừa và nhỏ có
thuỷ triều lên xuống. Phát triển mạnh nhất tại những vùng
vịnh lớn nhưng cửa vịnh nhỏ. Sò huyết thường sống nông, thích
hợp với điều kiện sống tĩnh, chất nước ổn định.
2.2
Nhiệt độ và độ mặn của nước
S
ò
huyết có thể sống ở môi trường có nhiệt độ dao động từ
0 -35oC, nhiệt độ thích
hợp nhất là 15 -30oC.
Nhiệt độ cao hơn 40oC hoặc thấp dưới -
2oC đều khiến sò bị chết.
Ðộ mặn phù hợp là
6,5 -29 . Ðộ mặn của nước
thấp hơn 3,8 hoặc cao hơn 33 sẽ ảnh hưởng tới sức sống
của sò, thậm chí khiến sò bị chết.
2.3
Chất đáy
Sò
huyết ưa sống ở vùng bùn cát, bằng phẳng, bề mặt mềm,
mịn. Bảng điều tra dưới đây cho thấy sò thích sống nhất
ở nơi có chất đáy là bùn cát, thứ đến là bùn nhão, sống
ít hoặc không sống tại nơi có chất đáy nhiều cát ít bùn.
Chất
đáy |
Tỉ
lệ (100%)
|
Số
lượng sò sống được con/m2 |
|
Bùn |
Cát
|
|
Bùn
nhão
|
90 |
10 |
61 |
Bùn
cát
|
70 |
30 |
831 |
Cát
bùn
|
20 |
80 |
|
Cát
bùn
|
30 |
70 |
5 |
2.4
Thuỷ triều
Sò
có thể sống tại cả ba khu vực : Nơi có thuỷ triều cao, thuỷ
triều vừa và thuỷ triều thấp. Nhưng số lượng của sò
huyết tại ba khu vực này rất khác nhau. Theo điều tra của nhóm
tác giả thì khu vực thuỷ triều vừa và thấp có sò huyết
sống nhiều hơn cả.
Thuỷ
triều cao
|
Thuỷ triều vừa
|
Thuỷ
triều thấp
|
0 |
165 |
395 |
5 |
831 |
95 |
89 |
61 |
12 |
45 |
203 |
285 |
3.
Gây giống bán nhân tạo
Hiện
nay, việc gây giống nhân tạo tuy đã thành công nhưng số lượng
vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất. Vì thế, giống chủ
yếu của nghề nuôi sò chính là sò tự nhiên, người ta phải
khai thác sò giống sống trong tự nhiên về nuôi thành sò thương
phẩm.
3.1
Vụ sò
Thời
kỳ sinh sản của sò huyết ở phía Nam Trung Quốc tương đối dài.
Tại vùng duyên hải tỉnh Quảng Ðông có 4 vụ sò chủ yếu, đó
là :
-
Vụ thu : Bắt đầu từ tiết Bạch lộ đến tiết Thu phân;
ở vụ này, sò sinh trưởng nhanh, đạt kích cỡ lớn, nhưng số
lượng thấp;
-
Vụ giáng : Tính từ tiết Hàn lộ đến Sương giáng; năng
suất cao, chất lượng tốt;
-
Vụ đông : Trước, sau Lập đông, chất lượng khá, số lượng
thấp;
-
Vụ xuân : Tiểu hàn và Ðại hàn; chất lượng sò giống kém,
năng suất thấp.
3.2.
Ruộng gây giống sò huyết
Ðể
thu hoạch sản lượng sò giống cao trên một diện tích nhỏ, tác
giả đã cùng đồng nghiệp tiến hành cuộc thử nghiệm ảnh hưởng
của chất đáy đối với sò giống nuôi trong hai ruộng vuông
vắn diện tích 36m2, thuỷ triều vừa.
Tại
ruộng nuôi thứ nhất, đổ 10 cm đất, loại bỏ tạp chất, san
bằng, cuối cùng dùng nê - mã
(vật hỗ trợ con người trong việc di chuyển trên bùn lầy đỡ
bị lún) để tạo lại hình dáng của ruộng sao cho ruộng nuôi
nhô cao ở giữa và thuôn đều về các phía giống như hình lưng
rùa.
Ruộng
thứ hai vẫn giữ nguyên trạng thái tự nhiên. Sau 25 ngày, kết
quả là chất bùn ở ruộng đã xử lý mềm hơn, mặt ruộng
bằng phẳng hơn và không tích nước. ở ruộng chưa xử lý,
chất đáy tương đối cứng, mặt ruộng lồi, lõm không đều và
bị đọng nước.
Số
lần kiểm tra |
Ruộng
bằng phẳng |
Ruộng
chưa bằng phẳng |
1 |
27 |
17 |
2 |
75 |
34 |
3 |
91 |
37 |
4 |
62 |
39 |
5 |
74 |
21 |
6 |
329 |
148 |
Tỉ lệ % |
68,97 |
31,03 |
3.3
Phương pháp khai thác sò giống
Khai
thác sò giống thường được thực hiện vào thời kỳ nước
lớn (Ðại Triều), mỗi đợt khai thác tiến hành trong 5 -
6 ngày. Tỉnh Quảng Ðông đang áp dụng phương pháp Tam
Triều , tức là tiến hành thu hoạch giống vào ba thời điểm
của thuỷ triều : Triều rút, triều lên và triều hoàn toàn. Công
cụ dùng để khai thác sò giống gồm có :
1 : Ban cào;
2 : Lưới
tay;
3 : Lưới cào;
4 : Lưới kéo;
5 : Gầu xúc sò làm bằng thép;
6 : Cái bừa;
7 : Sàng đãi sò;
8 : Giành đựng sò;
9 : Nê- mã.
3.3.1
Phương pháp khai thác sò giống khi triều rút Phương
pháp này chia làm hai loại, đều được tiến hành sau khi triều
rút. Loại thứ nhất là dùng ván trượt chuyên dụng (nê- mã) để
di chuyển và khai thác sò giống, tay nắm chắc bàn cào và lưới
tay, cào lớp bùn dày khoảng 0,5 cm ở tầng mặt, vừa cào vừa
lắc để loại bỏ lượng bùn mắc trong lưới, đến khi được
1/3 túi thì nhúng nước cho trôi bùn đất, làm sạch sò giống. Cách
thứ hai là tay trái cầm lưới, tay phải cầm bàn cào, từ từ cáo
tầng bùn trên cùng vào túi lưới, sau đó cũng sơ bộ làm sạch
sò trong túi bằng nước biển.
3.3.2
Phương pháp khai thác sò giống ở chỗ nước nông Trong
quá trình thuỷ triều lên hoặc thuỷ triều rút, chọn lúc mức
nước cao khoảng 0,3- 0,7m để tiến hành khai thác sò. Người
khai thác sò một tay nắm lưới cào lùa xuống nước và nhấc lên.
4.
ương nuôi sò giống
Là
chỉ quá trình ương sò giống từ giai đoạn sò cát đến khi
trở thành sò đậu. Sò cát là khái niệm chỉ sò giống mới
khai thác trong tự nhiên hoặc ấu trùng sò mới nuôi được 2 -
3 tháng, trung bình dài 0,2 - 0,3cm.
Một kg tương đương với 20.000 - 60.000
con. Sò đậu có hai loại, thứ nhất là sò cát sau 5 -
6 tháng nuôi dưỡng thì to bằng hạt đậu xanh, đạt cỡ
5.000 - 6.000 con/kg, loại thứ hai
là sò cát sau 1 năm nuôi dưỡng đạt chiều dài 1 -
2cm, cỡ 300 - 800 con/kg,
loại này còn có tên là sò trung.
4.1
Ðầm nuôi sò
Ðầm
nuôi sò nên xây trong vịnh, nơi có chất đáy là bùn nhão hoặc
bùn cát, thuỷ triều thấp. Dùng trà đã sao khô, giã thành bột
mịn, rắc xuống đầm nuôi sò. Mỗi ha dùng khoảng 30 kg bột trà
để diệt những sinh vật gây hại. Sau đó đảo qua đảo lại
mặt đáy cho phẳng rồi mới tiến hành chia thành nhiều ruộng
nhỏ.
4.2
Thả giống
Mật
độ thả giống dựa vào kích cỡ sò to hay nhỏ để quyết định.
Ðối với sò giống có kích cỡ trên 60.000 con/kg thì mỗi ha
thả 180 - 300 triệu con, cỡ sò
đạt 40.000 con/kg thả lượng giống là 135 -
150 triệu con/ha, sò giống dưới 20.000 con/kg sẽ thả 72 -
108 triệu con/ha. Thời điểm thả giống phải thích hợp,
không được thả khi thuỷ triều rút mạnh, tránh sò bị cuốn
trôi ra biển.
4.3
San thưa sò giống - đề phòng
sự cuốn trôi Trong
quá trình nuôi dưỡng, phải tiến hành san thưa sò giống. Lần
đầu tiên là khi sò giống mới được khai thác. Sau khi rửa
sạch sẽ lại chia nhỏ số lượng để thả
nuôi trở lại. Làm sạch thực chất là hình thức tập
luyện cho sò giống thích ứng với hoàn cảnh sống mới, hơn
nữa loại bỏ được những sinh vật gây hại như loại ốc
ngọt (Natica tigrina). Nuôi thưa có thể thực hiện bằng cách
mở rộng diện tích, hoặc di chuyển một bộ phận sò giống đến
nơi khác nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của sò.
Sò
giống sống ở tầng mặt, chiều dài trung bình khoảng 0,5 -
0,6cm, độ sâu của huyệt khoảng 0,5cm, về sau tuỳ thuộc
vào sự tăng trưởng của từng cá thể mà độ nông sâu của
huyệt sẽ khác nhau. Sò giống có khả năng di chuyển ngang mặt nước,
chúng di chuyển nhiều nhất khi có kích cỡ dưới 0,1 cm, lúc này
người nuôi sò phải để ý xem
sự phân bố của sò giống có đều hay không, tránh trường
hợp sò bị túm tụm quá nhiều sẽ tìm cách di chuyển ra khỏi
đầm nuôi.
Cỡ
sò giống (cm) |
Số
lượng (con) |
Khoảng
cách di chuyển và số lượng sò |
|
|
1-
13cm |
13-
26cm |
26-
38cm |
0,30-
0,40 |
24 |
17con |
3
con |
|
0,15-
0,20 |
60 |
22
con |
32
con |
2
con |
dưới
0,10 |
18 |
2
con |
6
con |
7
con |
5.
Nuôi sò huyết trong đầm
5.1
Cách thức nuôi và xây đầm
Phương
pháp nuôi sò huyết tại Trung Quốc chủ yếu có 2 loại : Nuôi
ruộng và nuôi đầm. Loại thứ nhất là nuôi trong vùng lầy không
ngập nước, hình thức nuôi này có thể tiến hành trên diện
rộng. Nhưng phương pháp nuôi ruộng có mặt hạn chế là sò sinh
trưởng chậm, sản lượng thu được không cao. Cách nuôi thứ
hai là nuôi đầm : Trong vịnh, tại khu vực cao và trung triều người
ta tiến hành xây đầm nuôi, khi thuỷ triều lên, nước sẽ tràn
qua đê vào trong đầm. ưu điểm của phương pháp này là lợi
dụng được thuỷ triều. Nhờ có nước trong đầm nuôi nên sò
ăn dễ dàng, sinh trưởng khá. Mặt khác, nhiệt độ của nước
trong đầm tương đối ổn định, sò không bị chết vì thời
tiết quá nóng hoặc quá lạnh. Nhược điểm của phương pháp này
là diện tích nuôi hẹp, chi phí cho việc xây đầm và nhân công
cao.
5.2
Mật độ thả giống
Mật
độ thả giống phụ thuộc vào điều kiện của vùng biển xây
đầm và phụ thuộc vào kích cỡ con giống, đặc điểm từng vùng.
Quyết định mật độ thả con giống dựa vào những nguyên tắc
sau: Triệt để tận dụng khả năng sản xuất tại vùng biển có
đầm nuôi sò, nơi mà phần lớn các yếu tố hữu quan đều không
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của sò. Sò giống nếu thả
quá dày thì lượng thức ăn cung cấp cho sò không đủ làm hạn
chế tốc độ sinh trưởng, ảnh hưởng đến sản lượng thu
hoạch. Trung bình nên thả sò với số lượng như sau :
Cỡ
sò (con/kg) |
Số
lượng giống (kg/ha) |
300
- 400 |
13.500
- 15.000 |
400
- 600 |
10.500
- 12.000 |
600
- 800 |
9.000
- 10.500 |
800
- 1.000 |
7.500
- 9.000 |
1.000
- 1.200 |
6.000
- 7.500 |
1.200
- 1.800 |
3.000
- 4.500 |
5.3
Công tác quản lý
Sò
giống một khi đã thả nuôi phải thường xuyên có người quản
lý, kịp thời tu sửa đê bao của đầm nuôi, tránh bị dò nước
ra ngoài, chú ý điều tiết lượng
nước trong đầm. Cứ 15 ngày tháo nước một lần, kiểm tra sự
sinh trưởng và điều kiện sống của sò, làm sạch đầm, loại
bỏ sinh vật gây hại. Tiêu diệt các loài Musculus senhousei
và rong bún Enteromorpha spp Nếu phát hiện mật độ sò quá
cao, sò sinh trưởng chậm, thì chuyển bớt một bộ phận tới nuôi
ở đầm khác.
5.4
Thu hoạch
Sò
huyết một năm tuổi có chiều dài 2 cm, sau hai năm là 2,8cm, ba năm
: 3,2cm. Sau 3 năm tốc độ sinh trưởng giảm. Ðây cũng chính là
thời gian tỉ lệ sò chết cao. Vì vậy, ngay khi sò đạt trên
3cm, phải tiến hành thu hoạch ngay.
Thời gian thu hoạch là từ tháng 11 tới tháng
3, lúc này thịt sò chắc, mùi vị thơm ngon. Tại ruộng nuôi không
ngập nước, mỗi ha cho sản lượng là 22.500 kg, nếu nuôi tốt
sản lượng thu được cũng chỉ là 52.500 kg. Sản lượng sò nuôi
trong đầm cao hơn, đạt 75.000 kg/ha. nếu thả 5,4 triệu con (cỡ
600 con/kg) vào 0,4 ha đầm nuôi thì sau 21 tháng sẽ thu được
36.000 kg sò, tức là bình quân mỗi mẫu Trung Quốc thu được
6.000 kg sò.
Thái Anh - Viện thuỷ sản Trạm Giang,
Trung Quốc (theo Tạp chí TS)
Gây giống và nuôi bán nhân tạo sò huyết (Tegillarca granosa) ở Trung Quốc
Sò huyết là loài nhuyễn thể 2 vỏ thụ tinh ngoài, giới tính của chúng có thể phân biệt dựa vào màu sắc của bộ phận sinh dục, ở con cái là màu vàng cam, còn ở con đực bộ phận này có màu vàng nhạt. Sò huyết thành thục và có khả năng sinh sản khi được hai năm tuổi.
Gây giống và nuôi...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.