Kĩ thuật nuôi tôm chân trắng
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Kĩ thuật nuôi tôm chân trắng
Kĩ thuật nuôi tôm chân trắng
Penaeus vannamei
Tôm chân trắng (P.vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh). Ðây là loài tôm quý có nhu cầu cao trên thị trường được nuôi phổ biến ở khu vực Mỹ La tinh và cho sản lượng lớn gần 200 nghìn tấn (1999). Những năm gần đây tôm được thuần hoá và nuôi thành công ở Trung Quốc. Một số địa phương của Trung Quốc như Quảng Ðông đã coi tôm chân trắng là đối tượng chính thay thế cho tôm he Trung Quốc (P.chinensis). Năm 2001 tôm chân trắng do Trung Quốc nuôi đã xuất khẩu sang Mỹ với khối lượng lớn và giá rẻ. Chúng tôi giới thiệu một số kinh nghiệm và yếu tố kỹ thuật để bạn đọc tham khảo áp dụng nhằm đa dạng hoá đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
1. Hình thức nuôi
Tôm chân trắng hay tôm P.vannamei là loại tôm có cường độ bắt mồi khoẻ, lớn nhanh thích hợp với các hình thức nuôi thâm canh như mô hình ít thay nước, mô hình tuần hoàn khép kín. Diện tích ao nuôi từ 0,5 - 1ha, độ sâu của nước 1,5 - 2m, mật độ từ 25 - 60 con/m2 như tôm sú nhưng thời gian nuôi chỉ cần 80 ngày tôm đạt cỡ 50 con/kg, trong khi đó tôm sú phải cần 110 - 120 ngày.
2. Chọn vùng nuôi
Ðịa hình phù hợp cho việc xây dựng ao nuôi công nghiệp là vùng
cao triều mới thuận lợi cho việc cấp nước, thoát nước và
phơi khô đáy ao khi cải tạo. Tôm P.vannamei
không thích sống ở ao đáy cát hoặc đáy bùn nên đất xây
dựng ao phải là đất thịt hoặc đất pha cát, ít mùn hữu cơ,
có kết cấu chặt, giữ được nước, pH của đất phải từ
5 trở lên.
Nguồn nước cung cấp chủ động, không bị ô nhiễm công nghiệp, nông
nghiệp hoặc sinh hoạt pH của nước từ 8,0 đến 8,3. Ðộ mặn từ 10 - 25 .
Về kinh tế xã hội : Nên chọn địa điểm vùng nuôi thuận lợi
về giao thông, gần nguồn điện, gần nơi cung cấp các dịch
vụ cho nghề nuôi tôm và an ninh trật tự tốt.
3. Thời vụ nuôi
Tôm P.vannamei là loại tôm rộng độ mặn, rộng nhiệt, nhưng phạm
vi thích hợp để tôm sinh trưởng nhanh có giới hạn. ở các
tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ thời gian tháng 2 hằng năm
nhiệt độ nước còn dưới 18oC. Mùa mưa bão thường
xảy ra trong tháng 8 và tháng 9. Do vậy, vụ nuôi tôm chỉ bắt
đầu được từ cuối tháng 3, đầu tháng 4 đến hết tháng 7
và vụ II từ tháng 10 đến tháng 12. ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ vụ nuôi từ
tháng 1 tháng 2 đến hết tháng 8, mỗi vụ từ 3 đến 4 tháng,
mùa mưa từ tháng 9 - 11 hằng năm.
4.
Xây dựng công trình nuôi
4.1 Ao nuôi
Công trình nuôi tôm P.vannamei có kết cấu tương tự như công trình
nuôi tôm sú. Mô hình nuôi phổ biến có năng suất cao là mô hình
ít thay nước. Diện tích từ 0,5 đến 1 ha. Hình dạng của ao là
hình vuông, hình tròn hoặc hình chữ nhật, chiều dài/chiền
rộng 2, thuận tiện cho việc tạo dòng chảy trong ao khi đặt máy
quạt nước dồn chất thải vào giữa ao để thu gom và tẩy
dọn ao. Ðáy ao bằng phẳng, có độ dốc khoảng 15oC
nghiêng về phía cống thoát.
4.2 Ao chứa - lắng
Khu vực nuôi phải có ao chứa - lắng để trữ nước và xử lý nước
trước khi cấp cho các ao nuôi. Diện tích ao chứa - lắng thường
bằng 25 - 30% diện tích khu nuôi, đáy ao chứa - lắng nên cao
bằng mặt nước cao nhất của ao nuôi để có thể tự cấp nước
cho ao nuôi bằng hình thức tháo cống mà không cần phải bơm.
Nước lấy vào ao chứa - lắng là nước biển qua cống hoặc bơm
tuỳ theo mức thuỷ triều của vùng nuôi. Nếu độ mặn quá
cao nước biển phải pha đấu với nước ngọt để hạ độ
mặn theo yêu cầu của kỹ thuật nuôi.
4.3 Ao xử lý thải
Khu vực nuôi còn cần phải có ao xử lý nước thải, diện tích
bằng 5 - 10% diện tích khu vực nuôi để xử lý nước ao nuôi
sau khi thu hoạch thành nước sạch không còn mầm bệnh mới
được thải ra biển.
4.4 Mương cấp, mương tiêu
Mương cấp và mương tiêu để cấp cho các ao nuôi và dẫn nước
của ao nuôi ra ao xử lý thải. Mương cấp cao bằng mặt nước
cao của ao nuôi và mương tiêu thấp hơn đáy ao 20 - 30 cmm để
thoát hết được nước trong ao khi cần tháo cạn. Hệ thống mương
cấp mương tiêu khoảng 10% diện tích khu vực nuôi.
4.5 Hệ thống bờ ao, đê bao
Ao nuôi tôm thông thường phải có độ sâu của nước 1,5m và
bờ ao tối thiểu cao hơn mặt nước 0,5m. Ðộ dốc của bờ
phụ thuộc vào chất đất khu vực xây dựng ao nuôi. Ðất cát
dễ xói lở bờ ao nên có độ dốc là 1/1,5, đất sét ít xói
lở hơn, độ dốc của bờ ao có thể là 1/1.
Cần lưu ý là bờ ao không cao, nước nông, sẽ tạo điều kiện cho
rong, tảo dưới đáy ao phát triển làm suy giảm chất lượng nước
ao nuôi.
Một số bờ ao trong khu vực nuôi nên đắp rộng hơn các bờ khác
để làm đường vận chuyển nguyên vật liệu cho khu vực nuôi.
Ðê
bao quanh khu vực nuôi thường là bờ của kênh mương cấp
hoặc tiêu nước. Hệ số mái tương tự ao nuôi nhưng bề mặt
lớn hơn và độ cao của đê phải cao hơn lúc thuỷ triều cao
nhất hoặc nước lũ trong mùa mưa lớn nhất 0,5 - 1m.
4.6 Cống cấp và cống tháo nước
Mỗi ao phải có một cống cấp và một cống tháo nước riêng
biệt. Vật liệu xây dựng cống là xi măng, khẩu độ cống
phụ thuộc vào kích thước ao nuôi, thông thường ao rộng 0,5 -
1 ha, công có khẩu độ 0,5 - 1m bảo đảm trong vòng 4 - 6 tiếng
có thể cấp đủ hoặc khi tháo có thể tháo hết nước trong
ao.
Cống tháo đặt thấp hơn chỗ thấp nhất của đáy ao 0,2 - 0,3 m để
tháo toàn bộ nước trong ao khi bắt tôm.
4.7 Bãi thải
Tuỳ quy mô khu vực nuôi và hình thức nuôi tôm để thiết kế bãi
thải nhằm thu gom rác thải và mùn bã hữu cơ ở đáy ao xử lý
thành phân bón hoặc rác thải di chuyển đi nơi khác để
chống ô nhiễm cho khu vực.
5. Cải tạo ao nuôi
5.1 Cải tạo đáy ao
Ðối với ao mới xây dựng xong cho nước vào ngâm 2 - 3 ngày rồi
lại xả hết nước để tháo rửa. Tháo rửa như vậy 2 đến
3 lần sau đấy dùng vôi bột để khử chua cả bờ và đáy ao.
Lượng vôi tuỳ theo pH của đất đáy ao :
- pH 6 - 7 dùng 300 - 400 kg/ha;
- pH 4,5 - 6 dùng 500 - 1.000 kg/ha.
Rắc vôi xong phơi ao 7 - 10 ngày lấy nước qua lưới lọc sinh vật có
mắt lưới 9 - 10 lỗ/cm2. Gây mầu nước để chuẩn
bị thả giống.
Ðối với ao cũ
Sau khi thu hoạch xả hết nước ao cũ. Nếu tháo kiệt được thì
nạo vét hết lớp bùn nhão rồi cầy xới đáy ao lên trộn
với vôi bột mỗi ha 500 - 1.000 kg phơi khô 10 - 15 ngày, lấy nước
vào qua lưới lọc để gây mầu nước như trên.
Ao
không tháo cạn được thì dùng bơm, bơm sục đáy ao để tẩy
rửa chất thải sau đó bón vôi diệt tạp. Vôi thường dùng là
vôi nung CaO với liều lượng từ 1.200 - 1.500 kg/ha cho ao với
mực nước 10 cm, với ao có mực nước sâu 0,5 - 1m lượng vôi
nhiều hơn gấp đôi. Lượng vôi nhiều hay ít phụ thuộc vào
chỉ số pH của nước ao. Bón vôi xong yêu cầu chỉ số pH
của nước ao phải đạt 8 - 8,3 mới được thả tôm giống để
nuôi.
Hoặc
dùng phương pháp cho vôi vào lồng tre buộc sau thuyền gỗ di
chuyển trong ao. Ao có mức nước sâu 0,5 - 1m mỗi ha dùng 1.500 -
2.000 kg vôi nung có thể diệt hết côn trùng, địch hại cho tôm
trong ao. Thời gian còn tác dụng là 7 - 8 ngày sau khi diệt tạp.
Những
ao đầm sau đây không được dùng vôi để sát trùng
-
Ao có đáy hoặc nước ao hàm lượng Ca++ quá cao; bón
vôi làm cho Ca++ kết hợp với PO=4 lắng
xuống gây nên hiện tượng thiếu lân trong ao; thực vật phù
du và rong tảo không phát triển được, không gây được màu nước
cho ao;
-
Ao có hàm lượng hữu cơ quá thấp, bón vôi làm cho quá trình
phân giải hữu cơ tăng lên làm cho nước quá gầy không có
lợi cho sinh vật sống trong ao; nếu dùng vôi để sát trùng sau
đó bón phân hữu cơ hoặc phân lân ao mới dùng lại được;
-
Bón vôi quá liều lượng làm cho nhiệt độ nước lên cao, pH
cao, NH3 cao, độc tính lớn dẫn đến bệnh tôm phát
triển;
-
Dùng vôi sát trùng xong không được bón phân urê; phân urê làm
tăng NH4-N trong nước, phá hoại tổ chức mang của tôm,
cản trở sự vận chuyển màu làm tôm bị chết.
Lưu
ý :
-
Quá trình tháo nước ao cũ phải kết hợp sục bùn làm sạch
ao; vét bớt bùn ô nhiễm ở đáy ao;
-
Quá trình tu bổ bờ ao phải bắt diệt hết ếch, rắn, các
loại động vật làm hang sống ở bờ ao, lấp các hang hố
quanh bờ ao;
-
Sau khi rắc vôi xong, dùng cào trộn đều khắp đáy ao để
diệt hết cá tạp và sinh vật có hại; cày đảo đáy ao cho ôxy
hoá lớp bùn đáy; phơi khô 10 - 15 ngày mới cho nước vào ao;
khi cho nước cần trộn thêm một ít chế phẩm sinh học và
chế phẩm ôxy hoá để khử chất độc và phân giải các hợp
chất hữu cơ trong ao;
-
Nếu đáy ao quá chua, hàm lượng sắt quá cao hoặc khả năng
thẩm lậu quá lớn không giữ được nước nên dùng lớp vải
nilông nhân tạo lót đáy ao; tuỳ theo đối tượng nuôi có
thể cho thêm một lớp cát dày 2 - 3 cm trên lớp vải lót để
tôm vùi mình theo tập tính sống của tôm.
5.2
Diệt tạp
Nước
lấy vào ao qua lưới lọc để 2 - 3 ngày cho các loại trứng
theo nước vào ao nở hết rồi tiến hành diệt bằng saponine
với nồng độ 15 - 20 ppm (15-20 g/m3 nước ao).
Saponine
là bột hạt chè ta uống hàng ngày. Nơi có điều kiện dùng
hạt chè nghiền thành bột ngâm vào nước ngọt 26 giờ, nếu
cần gấp thì ngâm vào nước nóng cũng được. Ngâm xong đem
lọc lấy dung dịch lọc được phun xuống ao. Ao có mức nước
sâu 1m, mỗi ha dùng 150 - 180 kg hạt chè xử lý như trên sau 40
phút có thể diệt được hầu hết cá dữ. Nhưng dùng nhiều
sẽ làm ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của tôm,
thậm chí làm tôm sinh bệnh.
Dùng
saponine diệt tạp xong phải thay nước mới được thả tôm
giống.
Hạt
chè được chế biến thành thương phẩm có tên là sapotech để
cung cấp cho các nơi không tự túc được hạt chè, sapotech được
đóng trong bao nilong bọc giấy, khi dùng đem ra pha nước tạt
xuống ao, lượng dùng là 4,5 - 5 g/m2, cho ao có mức nước
sâu khoảng 10 cm. Sau 15 - 20 giờ thay nước hoặc cho thêm nước
vào ao mới được thả tôm giống.
5.3
Khử trùng nguồn nước
Trong
nước ao thường có nhiều loại virus, vi khuẩn, nấm, tảo và
nguyên sinh động vật sinh ra các loại bệnh cho tôm như bệnh
đầu vàng, bệnh đốm trắng, bệnh MBV, bệnh phát sáng, bệnh
đóng rong, bệnh đỏ mang, bệnh hoại tử phụ bộ, v.v... Vì
vậy, trước khi thả tôm giống cần phải khử trùng nguồn nước.
Hoá chất dùng để khử trùng nguồn nước phổ biến là
chlorine. Chlorine có hàm lượng Cl 30 - 38%, để lâu sẽ bốc hơi
mất tác dụng nên thường phải xác định lại nồng độ cho
chính xác trước khi dùng.
Nồng
độ 2 ppm có tác dụng diệt khuẩn rất tốt. Ao có mức nước
sâu 1m, mỗi ha dùng 195 kg hoà loãng với nước ao phun đều
khắp ao. Nếu phun vào những ngày trời dâm mát, tác dụng
diệt khuẩn có thể kéo dài 4 đến 5 ngày. Trước khi thả tôm
giống phải mở máy quạt nước cho bay hết khí chlo còn lại
trong nước. Chú ý, không dùng chlorine ngay sau khi sử dụng vôi
sống vì gặp nước chlorine sản sinh ra HCl, vôi sống sinh ra OH
hai thứ trung hoà lẫn nhau làm mất tác dụng diệt khuẩn của
từng loại.
6.
Bón phân gây màu nước
6.1
Màu nước
Màu
nước là màu của nước được thể hiện dưới ánh sáng
mặt trời. Các yếu tố hợp thành màu của nước là các ion
kim loại, mùn bã hữu cơ tan trong nước, bùn đáy, chất huyền
phù, chất keo, đặc biệt là các loại sinh vật sống trong nước
nhất là các tảo đơn bào.
Màu
nước đậm hay nhạt là thể hiện các chất hữu cơ nói trên
và mật độ các loại tảo có trong nước nhiều hay ít.
Lượng
tảo đơn bào có trong nước nhiều hay ít, thành phần giống loài
gì phụ thuộc vào nồng độ và tỉ lệ các loại phân bón. Ví
dụ tỉ lệ N/P = 3/1 - 7/1 thì đa số các loài tảo có trong ao là
tảo lục làm cho nước có màu xanh lục.
Tỷ
lệ N/P = 10/1 thì đa số các loại tảo trong nước là tảo khuê,
làm cho nước có màu vàng lá chuối non.
Màu
nước có ý nghĩa rất lớn đối với ao nuôi tôm để :
-
Làm tăng lượng ôxy hoà tan trong nước;
-
ổn định chất nước và làm giảm các chất độc trong nước;
-
Làm thức ăn bổ sung cho tôm;
-
Giảm độ trong của nước giúp cho tôm nuôi dễ tránh địch
hại;
-
Nâng nhiệt và ổn định nhiệt trong ao;
-
Hạn chế tảo sợi và tảo đáy phát triển;
-
Hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh phát triển; đảm bảo cân
bằng sinh thái vùng nước.
Ðặc
trưng của các loại màu nước
6.1.1
Màu mận chín
Chủ
yếu là tảo khuê, rất có lợi đối với tôm. Thành phần
chủ yếu của các loại tảo là closteriopsis longissima (L);
schroederia, spirotaenia, surrirella biseriata (B), tiểu cầu tảo
v.v...
Các
loài tảo này là thức ăn của ấu trùng tôm ở giai đoạn
hậu ấu trùng.
6.1.2
Màu xanh nhạt hoặc xanh đậm
Thường
được gọi là xanh vỏ đậu. Thành phần chủ yếu là tảo
lục. Tảo lục hấp thụ rất nhiều đạm hữu cơ nên dễ làm
sạch nước có lợi cho tôm.
6.1.3
Màu xanh đậm
Chủ
yếu là tảo lam, tảo lục, thường thấy ở ao cũ. Tỷ lệ
sống của tôm ở ao này không cao lắm.
6.1.4
Màu xám hoặc màu nước tương
Chủ
yếu là tảo chromulina, englenaacus đây là những ao do quản lý
không tốt để dư thừa thức ăn quá nhiều làm nước bị ô
nhiêmx nên tôm dễ chết.
6.1.5
Màu vàng
Là
những ao có vật hữu cơ tích luỹ quá nhiều, qua quá trình phân
giải của vi sinh làm cho pH giảm thấp, không thích hợp cho
việc nuôi tôm. Các loại tảo chủ yếu ở đây là tảo
chromulina hoặc schroederia.
6.1.6
Màu trắng đục hoặc hơi đục
Chủ
yếu là các loại động vật như copepoda và các hạt hữu cơ
nhỏ li ti. Tôm nuôi ở đây rất dễ bị bệnh và tỷ lệ
sống rất thấp.
6.1.7
Màu trong vắt
Trong
nước có nhiều kim loại nặng và vật gây bệnh cho tôm, pH
thấp, ít sinh vật phù du, không nuôi được tôm. Việc cải
tạo ao nuôi cũng như bón phân gây màu nước là tạo điều
kiện sinh thái thích hợp với đời sống của tôm để tôm
sống lớn nhanh theo kế hoạch sản xuất của người nuôi.
Những chỉ tiêu đó được thể hiện qua màu sắc của nước
như đã nói trên và các chỉ tiêu lý hoá của nước.
6.2
Các chỉ tiêu lý hoá nước ao nuôi tôm
Một
số chỉ tiêu lý hoá được coi là tốt như sau:
-
Ôxy hoà tan trên 4 mg/l;
-
pH 8,0 - 8,5; trong ngày không được thay đổi quá 0,4 - 0,5 độ;
-
Nhiệt độ không được quá cao hay quá thấp lâu ngày; thích
hợp nhất là 20 - 30oC, quá cao không quá 33,5oC,
quá thấp không thấp quá 18oC;
-
Ðộ kiềm trong khoảng 100 đến 250 mg/l;
-
NH4, NO3 không được tăng quá đột ngột để
sinh bệnh cho tôm;
-
Ðộ trong 35 5 cm; màu nước là màu xanh lục hoặc màu mận chín;
-
Ðộ mặn 5 - 32 thích hợp nhất là 10 - 25 ;
-
Nếu pha với nước ngọt độ mặn có thể giảm đến 1 - 2
(gần như nước ngọt) tôm vẫn có thể sống được nhưng
phải giảm từ từ.
7.
Thả giống
7.1 Chọn tôm giống
Sau
khi ao xây dựng xong hoặc cải tạo đạt tiêu chuẩn; lấy nước,
bón phân gây màu xong phải thả tôm giống kịp thời. Nếu để
lâu sinh vật trong nước lại phát triển ảnh hưởng đến các
chỉ tiêu lý - hoá - sinh của môi trường, muốn thả giống
phải cải tạo, xử lý lại môi trường gây tốn kém và ảnh
hưởng tới tiến độ nuôi.
Trước
khi thả giống phải kiểm tra chất lượng tôm giống. Tôm
giống đạt tiêu chuẩn là: Tôm không mang các mầm bệnh mà
hiện nay khoa học đã phát hiện thấy, có phổ biến ở các
loại tôm như bệnh đốm trắng (WSSV), bệnh đỏ đuôi (TSV)
bệnh MBV, bệnh phát sáng, bệnh đóng rong, bệnh hoại tử phụ
bộ, v.v... Loại tôm này được mệnh danh là tôm sạch bệnh.
Hiện nay chỉ có loài P.vannamei do Viện OI của Hoa Kỳ chọn
giống tạo ra mới là tôm sạch bệnh. Các loài tôm khác kể
cả loài vannamei, nhưng sản xuất giống ở nơi khác không bảo
đảm công nghệ của OI không thể gọi định là tôm sạch
bệnh SPF.
Tôm
phải khoẻ. Dùng 50 - 100 tôm giống có chiều dài 1 - 1,2 cm để
kiểm tra hình dạng. Tôm khoẻ là tôm không dị hình, không có
thương tích, các phụ bộ đầy đủ, các cơ đầy đặn, màu
trong, ruột, dạ dày no, thích bơi ngược dòng, khi bơi hoạt bát,
cơ thể ngay thẳng. Bên ngoài không có ký sinh trùng và vật khác.
Ðàn tôm bố mẹ phải là tôm SPF nhập từ OI Hoa Kỳ. Công
nghệ sản xuất giống phải áp dụng công nghệ OI.
7.2
Ương tôm giống
ấu
trùng tôm P.vannamei rất bé, để đảm bảo tỷ lệ sống cao và
giảm bớt việc chiếm dụng diện tích ao nuôi thường người
ta tiến hành giai đoạn ương tôm giống từ cỡ P15 có chiều dài
từ 1 cm lên 3cm mới đưa vào ao nuôi.
Mật
độ ương là 100 - 200 ấu trùng/m2 hoặc cao hơn tuỳ
theo ao có hay không có điều kiện sục khí.
Ao
ương thường là 100 - 200 ấu trùng/m2 hoặc cao hơn
tuỳ theo ao có hay không có điều kiện sục khí.
Ao
ương thường có diện tích 1000 - 5000 m2. Trước khi
ương ao phải dọn đáy thật kỹ, sát trùng đáy và nước ao.
Bón phân gây màu. Nước sâu khoảng 0,8 - 1,0m. Khi độ trong trên
dưới 30 cm thì thả tôm vào ương. Ðộ mặn, nhiệt độ, của
ao ương phải giống như độ mặn, nhiệt độ ao ương tôm
bột P15.
Ao
nương luôn có hàm lượng ôxy hoà tan không dưới 5 mg/l. Màu nước
là màu xanh hoặc xanh lá chuối non (xanh vàng).
Thức
ăn cho tôm giai đoạn này là thịt nhuyễn thể hoặc thịt cá tươi
nghiền nhỏ trộn với thức ăn nhâ tạo. Tôm đạt cỡ 3 cm thì
thu hoạch chuyển sang ao nuôi tôm thịt.
7.3
Thả giống
Số
lượng giống cho mỗi ao phải thả đủ một lần, tốt nhất là
tôm cùng cho đẻ một đợt của những con tôm mới cho đẻ
lần đầu hoặc lần thứ hai. Không dùng tôm giống của những
con tôm đã cho đẻ từ lần thứ ba trở lên, chỉ thả tôm vào
ao khi ao nuôi có đủ các điều kiện sau đây :
-
Ao đã gây màu nước tốt đủ thức ăn tự nhiên cho tôm;
- Chất lượng nước ao nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn TCVN 5943 - 1995;
Thời
gian thả giống là sáng sớm hoặc chiều mát lúc thời tiết
tốt, không thả giống vào giữa trưa hoặc lúc trời mưa to gió
lớn, khí hậu thay đổi đột ngột ảnh hưởng tới tỷ lệ
sống của tôm.
V.Q.N, Thông tin KHCN thuỷ sản số 3/2002
Kĩ thuật nuôi tôm chân trắng
Tôm chân trắng (P.vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh). Ðây là loài tôm quý có nhu cầu cao trên thị trường được nuôi phổ biến ở khu vực Mỹ La tinh và cho sản lượng lớn gần 200 nghìn tấn (1999). Những năm gần đây tôm được thuần hoá và nuôi...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.