Các mô hình kỹ thuật trồng rong sụn (Kappaphycus alvarezii)

Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc, ngày 7/29/2013, trong mục "TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Các mô hình kỹ thuật trồng rong sụn (Kappaphycus alvarezii)

Các mô hình kỹ thuật trồng rong sụn (Kappaphycus alvarezii)

Rong sụn là loại rong biển có giá trị cao, thường được làm nguyên liệu chế biến Carrageenan dùng trong công nghiệp thực phẩm, y tế và nhiều ngành khác. Carrageenan là mặt hàng xuất khẩu quý, được nhiều thị trường ưa chuộng. Vì vậy, ngoài việc khai thác tự nhiên, rong sụn cần được phát triển trồng ở các thuỷ vực ven biển.

Rong sụn phù hợp đặc biệt với môi trường ven biển miền Trung và Nam nước ta, chúng có thể trồng được ở các bãi ngang nông, ở các vùng triều cạn, vùng nước sâu ven các đầm phá (lagoon), ven biển và ven các đảo.

1. Mô hình trồng rong sụn ở vùng nước cạn (từ 0,6m đến 1,5m khi thuỷ triều thấp)

- Diện tích của một đơn vị dàn trồng từ 1.000m2 - đến 2.500m2, có chiều ngang khoảng 20 - 25m, chiều dài từ 50 - 100m. Diện tích này vừa tiết kiệm được vật tư vừa thích hợp cho việc chăm sóc cũng như xử lý khi có những hiện tượng nguy hại cho rong (dịch bệnh ).

- Các dàn rong đặt cách nhau (phải, trái, trên, dưới) ít nhất 2 - 5 m, để đảm bảo nước có thể lưu chuyển đều vào các dàn.

- Trọng lượng giống ban đầu bình quân 80g/bụi.

- Khoảng cách buột giữa các bụi rong giống bình quân 20 cm, giữa các dây rong 35 - 40cm.

- Các dây rong đặt song song với hướng sóng gió.

- Trong mô hình dàn căng, trên đáy có phao dây rong nên đặt gần mặt nước (khoảng 20 - 30cm) để tận dụng sự dao động của sóng bề mặt, đồng thời tránh nhiệt độ cao do nền đáy hấp thu nhiệt.

- Ðể hạn chế cá ăn rong có thể dùng lưới (mắt lưới 1 - 1,5cm) bao chung quanh dàn, nên thường xuyên giũ lưới để các chất huyền phù bám làm bịt kín lỗ lưới.

- Thời gian trồng : bình quân 60 ngày.

2. Mô hình trồng rong sụn ở vùng nước sâu (2-3m trở lên)

Các vùng nước sâu (từ 2m nước trở lên) ở trong các đầm phá lớn, ven biển hở và các đảo nhiều sóng gió thích hợp với mô hình này.

Kỹ thuật trồng cũng tương tự như trên nhưng phải làm dàn phao để rong bám vào. Có hai loại dàn phao là diện tích 1.000m2 và 2.500m2. Cách làm dàn phao như sau :

- Dây làm khung chính f = 12mm, dây ngang có phao nhỏ (dây đỡ) f = 3 - 4mm.

- Chiều ngang dàn 20 - 25m, chiều dài của dàn có thể dài ngắn tuỳ vào điều kiện vùng trồng bình quân 50 - 100m, diện tích thích hợp từ 1.000 - 3.000m2/dàn.

- Dùng neo hay cọc gỗ, cọc sắt, đá, bao cát để giữ dàn.

- Giữ dàn cách mặt nước 20 - 30cm (trong mùa mát hoặc trong mùa nóng nơi nước luân chuyển tốt, có gió, sóng), 60 - 80 cm (trong mùa nắng nóng, khi nước luân chuyển không tốt hoặc ít gió sóng).

- Khoảng cách giữa các buột giống bình quân 20cm, khoảng cách giữa các dây giống 25 - 30cm (vào mùa mát), 35 - 40 cm (vào mùa nóng).

- Thời gian trồng đến khi thu hoạch (kể từ ngày ra giống): bình quân 45 - 50 ngày.

Dàn trồng rong luân canh với nuôi tôm sú

3. Mô hình trồng rong sụn luân canh trong ao đầm nuôi tôm sú ven biển

Có thể trồng rong sụn luân canh trong ao đìa nuôi tôm sú ven biển trong thời gian nghỉ nuôi tôm (thường từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau). Một số kỹ thuật cơ bản như sau :

- Chọn các ao có thể thay nước (bằng nước thuỷ triều) ít nhất 15 - 20 ngày/tháng, đáy ao ít bùn.

- Dàn trồng được làm theo kiểu dàn căng trên đáy hoặc dàn trên đáy có phao, diện tích các dàn thực trồng chiếm 60% tổng diện tích mặt nước của ao, đìa.

- Mật độ giống bình quân 5 tấn rong/ha (khoảng cách các bụi rong giống 30cm, khoảng cách các dây rong 40cm).

- Rong đặt cách đáy 30 - 40cm tùy vào khả năng mức nước lấy vào và giữ trong ao cao hay thấp hoặc dây rong được giữ cách mặt nước 30cm bằng hệ thống phao.

- Thay nước hằng ngày trong thời kỳ nước triều cường.

- Có thể trồng 2 vụ (mỗi vụ 2,5 tháng).

4. Kết quả triển khai các mô hình trồng rong sụn trong thời gian qua

- Dưới sự hỗ trợ của Dự án SUMA, trong thời gian qua (2002 - 2003) các mô hình đã được triển khai trên diện rộng ở Lagoon Sơn Hải, vùng nước sâu ven biển Sơn Hải (thuộc huyện Ninh Phước), vùng nước nông Ðầm Nại (huyện Ninh Hải) tỉnh Ninh Thuận; vùng nước nông ven Ðầm Thuỷ triều thuộc các xã Cam Nghĩa, Cam Phúc (thuộc thị xã Cam Ranh) tỉnh Khánh Hoà. Các địa phương khác (Phú Yên, Bình Ðịnh, Ðà Nẵng) cũng đang áp dụng các mô hình này trong chương trình phát triển trồng rong sụn.

- Có 2 mùa rõ rệt để trồng rong sụn ven biển các tỉnh Nam Trung bộ : Mùa từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, là các tháng mùa mát trong năm (nhiệt độ nước bình quân thường dưới 30oC). Thời gian này, rong sụn có tốc độ tăng trưởng cao (6 - 8%/ngày), sau 50 - 60 ngày, trồng trọng lượng rong tăng bình quân 8 (10) lần so với lượng giống ban đầu, ít xảy ra các hiện tượng nguy hại cho sản lượng (bệnh tật ) và là mùa trồng chính của rong sụn. Mùa từ tháng 4 đến tháng 9, là các tháng nắng nóng, đặc biệt trong các tháng 5 - 6, nhiệt độ nước thường cao (32 - 34oC), tốc độ tăng trưởng của rong sụn thấp, bình quân đạt 3 - 4%/ngày, sau 60 ngày trồng lượng rong tăng bình quân 5 - 6 lần, bệnh trắng lũn thân (Ice - ice) dễ xuất hiện, nhất là trong các vùng trồng có dòng chảy yếu hoặc quá kín gió sóng.

- Khi đầu ra của rong sụn cho xuất khẩu đã được mở (với số lượng yêu cầu lớn và ổn định. Hiện Chi nhánh Tổng Công ty Thuỷ sản Hạ Long tại Tp. HCM và Công ty Rong biển Việt Nam tại Khánh Hoà đang hợp tác với các địa phương Ninh Thuận, Khánh Hoà từ cuối năm 2002 và với Phú Yên, Bình Ðịnh trong thời gian tới, phát triển trồng và thu mua toàn bộ rong sụn khô, với giá bình quân 5.000 đ/kg). Từ cuối năm 2002 đến nay, các chương trình đầu tư phát triển và thu mua rong sụn ở các địa phương đã khởi động mạnh mẽ. Các mô hình kỹ thuật trồng trên đã góp phần không nhỏ trong việc qui hoạch vùng trồng, tập huấn hướng dẫn kỹ thuật cho phát triển phong trào.

- Ngoài ra, cũng trong thời gian này, đề tài cũng đã triển khai các mô hình trên ở vùng Dự án khu Bảo tồn Biển Hòn Mun cũng như Chương trình Hỗ trợ Cộng đồng của SUMA tại xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, Khánh Hoà. Ðặc biệt, mô hình trồng luân canh.

Chương trình nghiên cứu khoa học của Dự án SUMA - Tap chi KH& KT thuy san so 2-2004

 

Kỹ thuật trồng rong sụn (Kappaphicus alvarezii) 

I/ MỞ ÐẦU

Rong sụn có tên khoa học là Kappaphicus alvarezii là nguyên liệu chủ yếu để chế biến Carrageenan - loại chế phẩm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực kinh tế như chế biến thực phẩm, y dược, mỹ phẩm. Ðặc biệt có tính ưu việt về hàm lượng các nguyên tố vi lượng hữu ích như: Mg, Cu, Fe, Mn,...là một loại Polysacharide có tính nhũ hóa cao, có thể giải độc, chữa các bệnh mãn tính, làm nguyên liệu keo,.... Chính vì vậy nhiều nước trong khu vực như: Philippines, Inđônnêsia, Tanzania... đã đầu tư cho nghiên cứu và sản xuất loài rong này, mỗi năm trên thế giới sản xuất được hơn 100.000 tấn sản phẩm. Một số nhà khoa học trên thế giới đã xếp rong sụn vào thực đơn quan trọng trong đời sống con người ở thế kỷ 21.

Rong sụn là loài rong biển nhiệt đới, có nguồn gốc từ Philippines. Tháng 2/1993 Phân Viện khoa học vật liệu Nha Trang di nhập về Việt Nam từ Nhật Bản thông qua chương trình hợp tác khoa học Việt Nam - Nhật Bản.

Tháng 10/1993 được sự giúp đỡ của Phân Viện khoa học vật liệu Nha Trang, Trung tâm khuyến ngư Ninh Thuận đã nhận 5 kg rong sụn về trồng thử nghiệm tại đầm Sơn hải và từ đó đến nay rong sụn đã không ngừng phát triển và lan rộng ra một số tỉnh như Phú yên, Khánh Hòa, Kiên Giang,... Ðến nay có thể khẳng định rong sụn là đối tượng trồng tương đối phù hợp với mọi loại hình mặt nước và được đánh giá là có nhiều ưu thế hơn hẳn một số loài rong biển kinh tế hiện có ở địa phương tạo ra nguồn nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu.

Cho đến nay trồng rong sụn đã trở thành một nghề nuôi trồng thủy sản mới cho người dân ven biển Ninh Thuận mang lại hiệu quả kinh tế cho người trồng góp phần vào chương trình xóa đói giảm nghèo cho người dân sống ở các vùng ven biển. Tuy nhiên nghề trồng rong sụn hiện nay đang gặp nhiều khó khăn trong việc lưu giữ giống, giảp pháp trồng ngoài bãi triều và cách sơ chế bảo quản đạt tiêu chuẩn cho sử dụng trong công nghiệp. Ðể giúp cho người trồng rong sụn đạt kết quả cao hơn, trung tâm khuyến ngư biên soạn tài liệu: "Kỹ thuật trồng rong sụn".

Vì khả năng có hạn, tài liệu chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bà con cùng bạn đọc. 

II. KỸ THUẬT TRỒNG RONG SỤN.

2.1/ Ðặc tính sinh học của rong sụn

2.1.1/ Ðộ mặn

Rong sụn là loài rong ưa mặn chỉ sinh trưởng và phát triển tốt ở vùng nước có độ mặn cao (28 -32 phần ngàn), ở độ mặn thấp (18-20 phần ngàn) rong sụn chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn (5-7 ngày) và nếu kéo dài nhiều ngày rong sẽ ngừng phát triển và dẫn đến tàn lụi.

2.1.2/ Dòng chảy và lưu thông

Rong phát triển tốt ở vùng nước thường xuyên trao đổi và luân chuyển (tạo ra do dòng chảy, dòng triều hay sóng bề mặt). đây là yếu tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và phát triển cũng như chất lượng của rong sụn.

2.1.3/ Nhiệt độ

Nhiệt độ thích hợp nhất để rong sụn sinh trưởng và phát triển là 25 -28 độ C. Nhiệt độ cao hơn 30 độ C và thấp hơn 20 độC sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng của rong, nếu nhiệt độ thấp hơn 15 -18 độ C rong ngừng phát triển.

2.1.4/ Cường độ ánh sáng

Thích hợp nhất 30.000 - 50.000 lux, ánh sáng cao quá hay thấp quá ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của rong.

2.1.5/ Yêu cần dinh dưỡng

Trong điều kiện nhiệt độ không quá cao, nước được trao đổi thường xuyên rong sụn hầu như không đòi hỏi nhiều về các chất dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng có sẵn trong nước biển đủ cung cấp cho cây rong Sụn phát triển. Chỉ trong điều kiện nước tỉnh, ít được trao đổi và nhiệt độ nước cao (mùa nắng - nóng, trong các thủy vực nước yên như : ao, đìa nhân tạo) rong sụn đòi hỏi dinh dưỡng (các muối Amon và Phot phat) cao hơn cho sự sinh trưởng. Nhìn chung ở các vùng có hàm lượng các muối dinh dưỡng (Amon, Nitrat, Phot phat) cao, tốc độ sinh trưởng của rong sụn cao và có thể giúp cây rong sụn phát triển bình thường trong các điều kiện không thuận (nhiệt độ cao, độ muối thấp, nước ít lưu chuyển) 

2.2/ Chọn vùng trồng rong sụn

Việc chọn vùng trồng có tính quyết định đến năng suất, chi phí sản xuất, tính ổn định ( thời gian trồng quanh năm, hay theo mùa thích hợp) hiệu quả kinh tế trong trồng rong sụn, các yêu cầu chủ yếu trong việc chọn vùng trồng như sau:

 - Nước có độ muối cao ( 28-30 phần ngàn) và ổn định, xa các nguồn nước ngọt trực tiếp đổ ra.

 - Ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của sóng gió mạnh (làm gãy dàn trồng và gãy nát rong) của các mùa gió (Ðông Bắc và Tây Nam).

- Nước luôn được luân chuyển hay trao đổi tốt (thường tạo ra do các dòng chảy, dòng triều hay sóng gió bề mặt). Các nơi có dòng chảy tốt nước thường xuyên lưu chuyển với lưu tốc vừa phải (20 - 40m/phút) sẽ làm cho cây rong luôn được rửa sạch, đặc biệt giúp cho cây rong chống lại được các điều kiện môi trường bất lợi (nhiệt độ, độ muối, pH, các chất khí hòa tan,.) gây hại đối với sự sinh trưởng của cây rong.

- Ðối với các bãi ngang, vùng triều cạn, khi thủy triều rút thấp nhất nước phải còn lại ở độ sâu ít nhất 0,5 m, đảm bảo rong không bị phơi ra ngoài không khí và biên độ thủy triều không nên lớn quá 2m, nếu cao quá sẽ khó khăn trong hoạt động trồng, chăm sóc, thu hoạch,.

- Ðáy vùng trồng tốt nhất là đáy cứng (cát thô đến san hô vun, thêm vào đó nếu có nhiều rong biển và cỏ biển tự nhiên mọc điều đó chứng tỏ nước ở đó luân chuyển và trao đổi tốt. Ðáy cát (mịn) bùn hay bùn cát đều ít tốt cho trồng rong Sụn, nó chứng tỏ dòng chảy của nước ở đây yếu. 

 Nhìn chung rong sụn có thể trồng ở các thủy vực và mặt nước khác nhau ven biển và ở các đảo từ độ sâu 0,5 -5 -10 m, có thể trồng quanh năm (ở các diện tích có điều kiện môi trường, nhất là độ mặn và sóng gió, thích hợp và ổn định ; hoặc theo mùa có điều kiện môi trường thích hợp. Song vùng trồng thích hợp và mang lại hiệu quả cao là vùng nước vừa đảm bảo được các yêu cầu về điều kiện sinh thái môi trường ổn định qua các mùa, dàn trồng và cây rong ít bị hư hại do tác động cơ học của gió to sóng lớn qua các mùa, chi phí cho trồng rong thấp, các hoạt động trồng (làm dàn rong, buộc giống, chăm sóc, thu hoạch,. ) có thể thực hiện dễ dàng .. Kinh nghiệm cho thấy các vùng bãi ngang đáy cát vùng triều có độ sâu thấp và vừa phải ở ven biển. Ven các đầm phá, ven đảo là thuận lợi cho trồng rong sụn. 

2.3/ Chọn rong giống

- Ta chọn các loại rong khỏe, đường kính thân rong 3-5 mm, nhánh dài 5 -7 cm, có màu xanh lục thẫm. mượt, không có rong tạp bám.

- Rong được bẻ thành những cụm nhỏ có trọng lượng từ 100 - 150g/cụm làm giống.

- Lưu ý khi chuyển giống từ nơi khác đến nơi trồng cần phải có biện pháp che nắng, giữ độ ẩm cho rong. 

2.4/ Cách trồng và bố trí giàn rong

2.4.1 Cách trồng ở các thủy vực.

Có thể trồng rong sụn bằng nhiều hình thức khác nhau như: Trồng đáy, trồng bằng dàn bè, trồng bằng hình thức dây đơn căng trên đáy, trong đó hiện nay tại Ninh Thuận phương pháp trồng bằng dây đơn căng trên đáy được áp dụng rộng rãi và được đánh giá là có nhiều ưu điểm hơn cả.

a/ Trồng ở các đầm vịnh ít sóng gió theo phương pháp dây đơn căn trên đáy:

- Chọn các khu vực bằng phẳng, dọn sạch rong tảo và các loại thực vật khác.

- Dùng cọc tre có đường kính 3-5cm, chiều dài 1-1,2m. các cọc được đóng thành hàng xuống đáy, mỗi cọc cách nhau 0,7-1m, hai hàng cọc cách nhau 10m, ở khoảng giữa có thể xen 1 cọc phụ. Các hàng cọc nên đặt thẳng góc với hướng gió để cho các dây rong song song với hướng gió.

- Buộc dây căng bằng sợi cước nilon đường kính 1 -2mm ở giữa hai hàng cọc. Dây căng cách đáy 0,2 - 0,5m, trên các dây căng có buộc các phao để cố định cách mặt nước 0,3 - 0,4m.

- Dùng dây nilon mềm, cắt đoạn 20cm, một đầu buộc vào bụi rong giống, đầu kia buộc vào sợi dây căng. Khoảng cách buộc giữa hai bụi rong từ 0,25 - 0,3m.

b/ Trồng ở bãi triều, ở các khu vực nước sâu theo phương pháp giàn bè có phao nổi

- Dùng gỗ hoặc tre ống dài 4-5m làm thành khung hình chữ nhật có kích thước 3x4 m. Xung quanh bao lưới để giảm sóng, tránh cá tạp ăn rong.

- Buộc dây thừng hay dây nilon f =0,5-1 cm của các cạnh đối nhau.

- Buộc các dây căn trong khung thành từng dãy cách nhau 0,4 m hàng cách hàng 0,4 m

- Rong giống được buộc vào các dây căng cách nhau 0,25-0,3 m tùy từng điều kiện và cách trồng quyết định vật liệu làm khung.

- Các đầu góc của khung được buộc dây và neo chặt xuống đáy, bên trên buộc các phao nổi. Dây nối giữa các phao và giàn dài 3-4 m dưới khung cố định để giữ bè rong luôn luôn cách mặt nước 0,4-0,5 m.

c/ Trồng trong ao nuôi tôm

- Trong ao nuôi tôm có thể trồng luân canh 1 vụ tôm 1 vụ rong để hạn chế sự ô nhiễm môi trường ao nuôi. Chọn những ao có 2 cống lấy nước, xả nước độ mặn ổn định 26 phần ngàntrở lên, mực nước trong ao từ 0,8 -1,0 m, độ trong 50 -60 cm.

- Có thể rải rong giống trực tiếp trên đáy, hoặc dùng rong giống buộc vào dây đơn cố định bằng phao, hoặc cọc cách đáy 0,2 -0,3 m.

- Mật độ trồng: 500g/m2. 

(Web Ninh Thuận - Theo Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Ninh Thuận) 

 

Kinh nghiệm trồng rong sụn ở Khánh Hòa

1. Vận chuyển rong giống

Dùng sọt tre hay bao để đựng rong giống (không nên nén chặt rong với nhau). Nếu vận chuyển lượng lớn, phải đi xa nên dùng xe tải có máy lạnh, nhớ định giờ để tưới nước biển giữ độ ẩm cho rong.

2. Mùa vụ trồng rong sụn (Áp dụng cho các tỉnh Trung và Nam Trung bộ)

Mùa chính: Thường từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, còn ở các tỉnh Nam bộ thường từ tháng 6 đến tháng 3 năm sau.

Mùa phụ: Từ tháng 4 đến tháng 6

3. Thời gian trồng và cách sơ chế

Kể từ ngày ra giống, với trọng lượng giống ban đầu 80 - 100g/bụi, đến trọng lượng đạt từ 1kg trở lên và thu hoạch. Kinh nghiệm cho thấy, nếu trồng rong sụn ở các vùng nước cạn, dòng chảy và sự lưu chuyển của nước yếu, vào mùa nhiệt độ cao... thì sau 2 - 2,5 tháng mới cho thu hoạch. Nếu ở những vùng nước sâu, biển hở, sóng gió và sự lưu chuyển của nước tốt có thể sau 45 - 50 ngày là thu hoạch được.

Cách sơ chế: Phơi vài ngày nắng (tùy thuộc vào mức độ) cho đến khi rong khô và xuất hiện lớp muối trắng trên bề mặt rong là được. Gỡ bỏ rác, dây buộc còn sót, giũ sạch cát muối rồi cho vào bao, cất giữ nơi thoáng mát, tránh ẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nguyên liệu.

4. Bệnh rong và biện pháp phòng ngừa

- Bệnh trắng lũn thân là một bệnh chủ yếu và phổ biến nhất đối với rong sụn, nó gây thiệt hại ở nhiều mức độ khác nhau về sản lượng cũng như chất lượng...

- Trồng rong ở những vùng có dòng nước chảy, không kín sóng gió, xa nguồn nước ngọt, tránh vùng nước quá cạn và quá kín sóng gió. Sự lưu chuyển tốt của nước luôn là nhân tố quan trọng nhất trong nghề trồng rong sụn.

- Các giàn trồng rong cần có kích thước nhỏ đến vừa, mỗi giàn chỉ nên có kích thước tối đa 2000 - 3000m2 để dễ dàng trong việc điều chỉnh độ sâu của giàn cũng như thuận lợi cho việc xử lý khi bệnh rong xuất hiện.

5. Biện pháp xử lý bệnh xảy ra

Bệnh xuất hiện phát triển nhanh và lây lan. Khi rong bệnh cần phải xử lý bằng cách:

- Thu và cắt bỏ các phần bị bệnh rồi buộc giống trở lại.

- Hạ giàn rong xuống sâu 0,6 - 0,8m cách mặt nước.

- Di chuyển giàn trồng đến vùng dòng nước chảy tốt, thường xuyên có gió và sóng. 

NNVN, 1/6/2004

 

Trồng rong sụn như thế nào?

Rong sụn (Kappaphicus alvarezii) là nguyên liệu chủ yếu để chế biến Carrageenan - chế phẩm được sử dụng rộng rãi trong chế biến thực phẩm, y dược, mỹ phẩm. Đặc biệt, rong sụn có tính ưu việt về hàm lượng các nguyên tố vi lượng hữu ích như: Mg, Cu, Fe, Mn,… là một loại Polysacharide có tính nhũ hóa cao, có thể giải độc, chữa các bệnh mãn tính, làm nguyên liệu keo… Hiện nhiều nước trong khu vực như: Philippines, Indonesia, Tanzania… đã đầu tư nghiên cứu và sản xuất loài rong này. Rong sụn là loài rong biển nhiệt đới, có nguồn gốc từ Philippines. Tháng 2-1993, Phân Viện Khoa học vật liệu Nha Trang đã nhập từ Nhật Bản về Việt Nam thông qua chương trình hợp tác khoa học Việt Nam - Nhật Bản. Đến nay, rong sụn đã không ngừng phát triển và lan rộng ra một số tỉnh như Phú Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang…

Rong sụn là loài rong chỉ sinh trưởng và phát triển tốt ở vùng nước có độ mặn cao (28 - 32‰), ở độ mặn thấp (18 - 20‰), rong sụn chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn (5 - 7 ngày) và nếu kéo dài nhiều ngày rong sẽ ngừng phát triển và tàn lụi. Rong phát triển tốt ở vùng nước thường xuyên trao đổi và luân chuyển. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và phát triển cũng như chất lượng của rong sụn. Nhiệt độ thích hợp nhất để rong sụn sinh trưởng và phát triển là 25 - 28oC. Nhiệt độ cao hơn 30oC và thấp hơn 20oC sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng của rong, nếu nhiệt độ thấp hơn 15 - 18oC rong ngừng phát triển. Cường độ ánh sáng thích hợp nhất 30.000 - 50.000 lux.

Trong điều kiện nhiệt độ không quá cao, nước được trao đổi thường xuyên, các chất dinh dưỡng có sẵn trong nước biển đủ cung cấp cho cây rong sụn phát triển. Chỉ trong điều kiện nước tĩnh, ít được trao đổi và nhiệt độ nước cao, rong sụn đòi hỏi dinh dưỡng (các muối Amon và Photphat) cao hơn cho sự sinh trưởng. Việc chọn vùng trồng có tính quyết định đến năng suất và hiệu quả kinh tế của rong. Nước có độ muối cao (28 - 30‰) và ổn định, xa các nguồn nước ngọt trực tiếp đổ ra. Vùng nước ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của sóng gió mạnh (làm gãy giàn trồng và gãy nát rong). Nước luôn được luân chuyển hay trao đổi tốt thường tạo ra do các dòng chảy, dòng triều hay sóng gió bề mặt. Các nơi có dòng chảy tốt nước thường xuyên lưu chuyển với lưu tốc vừa phải (20 - 40m/phút) sẽ làm cho cây rong luôn được rửa sạch, giúp cây rong chống lại được các điều kiện môi trường bất lợi gây hại đối với sự sinh trưởng. Đối với các bãi ngang, vùng triều cạn, khi thủy triều rút nước phải còn ở độ sâu ít nhất 0,5m, đảm bảo rong không bị phơi ra ngoài không khí và biên độ thủy triều không nên lớn quá 2m, nếu cao quá sẽ khó khăn trong hoạt động trồng, chăm sóc, thu hoạch. Đáy vùng trồng tốt nhất là đáy cứng, cát thô đến san hô vun. Nếu có nhiều rong biển và cỏ biển tự nhiên mọc chứng tỏ nước ở đó luân chuyển và trao đổi tốt. Đáy cát mịn, bùn hay bùn cát đều không tốt cho trồng rong sụn, nó chứng tỏ dòng chảy của nước ở đây yếu.

Nhìn chung rong sụn có thể trồng ở các thủy vực và mặt nước khác nhau ven biển và ở các đảo từ độ sâu 0,5 - 5 - 10m, có thể trồng quanh năm. Song vùng trồng thích hợp và mang lại hiệu quả cao là vùng nước vừa đảm bảo các yêu cầu về điều kiện sinh thái môi trường ổn định qua các mùa, giàn trồng và cây rong ít bị hư hại do tác động cơ học của gió to sóng lớn qua các mùa, việc làm giàn rong, buộc giống, chăm sóc, thu hoạch có thể thực hiện dễ dàng. Kinh nghiệm cho thấy các vùng bãi ngang đáy cát, vùng triều có độ sâu thấp và vừa phải ở ven biển, ven các đầm phá, ven đảo là thuận lợi cho trồng rong sụn.

Chọn các loại rong khỏe, đường kính thân rong 3 - 5mm, nhánh dài 5 - 7cm, có màu xanh lục thẫm, mượt, không có rong tạp bám. Rong được bẻ thành những cụm nhỏ có trọng lượng từ 100 - 150g/cụm làm giống. Có thể trồng rong sụn bằng nhiều hình thức khác nhau như: Trồng đáy, trồng bằng giàn bè, trồng bằng hình thức dây đơn căng trên đáy. Hiện nay, phương pháp trồng bằng dây đơn căng trên đáy được áp dụng rộng rãi và được đánh giá là có nhiều ưu điểm hơn cả. Ở các khu vực nước sâu trồng theo phương pháp giàn bè có phao nổi. Xung quanh bao lưới để giảm sóng, tránh cá tạp ăn rong. Rong giống được buộc vào các dây căng cách nhau 0,25 - 0,3m, tùy điều kiện và cách trồng quyết định vật liệu làm khung. Dây nối giữa các phao và giàn dài 3 - 4m dưới khung cố định để giữ bè rong luôn luôn cách mặt nước 0,4 - 0,5m.

AN KHÁNH - KH, 06/12/2004

Các mô hình kỹ thuật trồng rong sụn (Kappaphycus alvarezii)

Rong sụn là loại rong biển có giá trị cao, thường được làm nguyên liệu chế biến Carrageenan dùng trong công nghiệp thực phẩm, y tế và nhiều ngành khác. Carrageenan là mặt hàng xuất khẩu quý, được nhiều thị trường ưa chuộng. Các mô hình kỹ thuật trồng rong sụn (Kappaphycus... Xem chi tiết


Chia sẻ bài báo này với bạn bè.


Ý kiến bạn đọc

Viết bình luận của bạn
Name:
E-mail:
Lời bình:
Insert Cancel


Các bài báo cùng chuyên mục Các bài báo cùng chuyên mục

Nuôi gia súc


Nuôi gia cầm


Nuôi các loại khác


Phòng và trị bệnh cho cây trồng, vật nuôi


Trồng cây ăn trái


Trồng rau đậu, hoa màu


Trồng cây lương thực


Trồng hoa, cây cảnh


Trồng cây rừng, cây công nghiệp


Cây làm thuốc, con làm thuốc

Rau hoa quả làm thuốc (Thảo dược)


Trồng các loại cây khác


Phân bón

Phân bón và cách bón phân

Nước tưới và tưới nước

Tưới nước và tiết kiệm nước tưới

Trồng trọt, chăn nuôi theo mùa


Vật tư, trang thiết bị nông nghiệp


Bảo quản, chế biến sau thu hoạch


Các chuyên đề nông nghiệp khác



































NÔNG HỌC TRÊN FACEBOOK
HÃY KẾT NỐI VỚI NÔNG HỌC
Giỏ hàng

Bạn chưa bỏ gì vào giỏ hàng

Lịch sử hóa đơn

GIÁ NÔNG SẢN
Lợn hơi
55,000/Kg
Điều hạt thô
26,000/Kg
Đường Biên Hoà (loại xuất khẩu)
21,000/Kg
Muối hạt
5,500/Kg
Muối iốt
6,000/Kg
Gà Tam Hoàng hơi
72,000/Kg
Gà Công nghiệp hơi
45,000/Kg
Thịt nạc đùi bò
220,000/Kg
Thịt bò thăn
260,000/Kg
Thịt lợn đùi
85,000/Kg
Thịt nạc
95,000/Kg
Trứng vịt
34,000/Kg
Trứng gà công nghiệp
25,000/Kg
Vừng vàng loại 1
65,000/Kg
Đậu đen loại 1
50,000/Kg

Xem giá các mặt hàng khácXem giá các mặt hàng khác

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xâm thực ở bơm bánh răng
by nhvan226
Bơm chìm nước thải hoạt động như thế nào
by nhvan226
Giá xe Honda Winner X 2024 mới nhất và thông tin màu sắc, phiên bản, TSKT (T03/2024)
by reviewxe12345
Giá xe Honda SH 160i 2024 mới nhất và thông tin màu sắc, phiên bản, TSKT (T03/2024)
by reviewxe12345
Chi tiết phiên bản, màu sắc, thông số, giá xe Honda SH 350i 2024 (T03/2024)
by reviewxe12345
HOA LAN BÍ KÍP

Hoa Lan Bí Kíp #48
Chiêu số 48: Cái rây bột có thể dùng làm cái rổ trồng lan mà lại rẻ tiền.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #62
Chiêu số 62: Hãy dùng chậu có nhiều lỗ ở đáy. Nên nhớ hoa lan không biết bơi.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #71
Chiêu số 71: Tránh rễ bị úng nước trong chậu lớn bằng cách đặt 1 chậu nhỏ ngược đầu vào trong chậu lớn.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #34
Chiêu số 34: Dùng lá khuynh-diệp nhỏ bỏ vào mỗi chậu cây lan Hồ-Điệp sẽ ngăn được rệp nhện (spider-mites).



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #71
Chiêu số 71: Tránh rễ bị úng nước trong chậu lớn bằng cách đặt 1 chậu nhỏ ngược đầu vào trong chậu lớn.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #53
Chiêu số 53: Dùng lưỡi dao cạo "xài rồi bỏ" (disposable razor blades) để cắt rễ hay chia cây; sau đó bỏ đi. Tính ra chỉ có 5 cent cho mỗi cây.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #65
Chiêu số 64: Nếu hồ nghi, cứ dùng phân 20-20-20 là an toàn hơn cả.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #69
Chiêu số 69: Nhúng những đồ dùng để cắt cây vào sữa nước sẽ giảm lây Virus.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #54
Chiêu số 54: Phân chia cây là một vấn đề. Cần lưu ý là cây càng lớn thì cho ta càng nhiều giò hoa.



theo hoalanvietnam.org

Hoa Lan Bí Kíp #83
Chiêu số 83: Nước tưới không nên dùng nước đã qua hệ thống lọc bằng muối (Soft water)



theo hoalanvietnam.org

chợ nông sản

Hãy khám phá chức năng mới của chúng tôi: tạo gian hàng, đăng sản phẩm để rao bán trực tuyến một cách miễn phí.

Cơ hội để bạn mở rộng kinh doanh, tìm kiếm đối tác và tăng doanh số nhanh nhất.

Bạn cũng đang kinh doanh trong lĩnh vực nông sản?

Tham gia ngay

KỸ THUẬT THỦY SẢN

Kỹ thuật nuôi tôm



Phòng & trị bệnh


Kỹ thuật nuôi cá


Kỹ thuật nuôi các loại thủy hải sản khác


Môi trường nước


Nuôi thủy sản theo mùa


Vật tư & trang thiết bị: thuốc, hóa chất xử lý môi trường, thức ăn, dụng cụ, thiết bị


Nuôi thủy sản theo luật và tiêu chuẩn


An toàn thực phẩm thủy hải sản


Các chuyên đề khác

Video clip nông nghiệp, thủy sản
Hỏi - đáp, thảo luận
Tin tức về các kỹ thuật mới
Các cơ quan khuyến nông - ngư
Các cơ sở đào tạo & nghiên cứu
Sách, giáo trình và website

WEBSITE LIÊN KẾT