Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Nuôi
thỏ
Nuôi
thỏ
Bảo tồn quỹ gen Thỏ
1.
Xuất xứ
Theo
phân loại động vật thỏ thuộc lớp động vật có vú (Mammalia),
bộ gậm nhấm (Rodentia), họ Leporidae. Thỏ rừng có
nhiều loại khác nhau, hiện nay chỉ có loài Oryctolagus Cuniculus được thuần hoá thành thỏ nhà.
Quần
thể thỏ ở Việt Nam được du nhập từ Pháp khoảng 70-80 năm
trước đây. Chúng đã bị lai tạp nhiều giữa các giống khác
nhau nên cũng có những biến hoá khác nhau về ngoại hình.
2.
Phân bố
Thỏ
thường được nuôi trong các hộ gia đình với quy mô nhỏ, rải
rác ở nhiều vùng, không tập trung, số lượng không ổn định.
3.
Đặc điểm
3.1.
Đặc điểm ngoại hình
Thỏ
đen: lông ngắn, có màu đen tuyền, mắt đen, đầu to vừa phải,
mồm nhỏ, cổ không vạm vỡ, lưng khum, bụng thon, thân hình
chắc chắn, 4 chân dài thô, xương to.
Thỏ
xám: lông ngắn, màu lông thay đổi từ xám tro đến xám ghi, màu
lông vùng dưới bụng, ngực, đuôi có màu xám nhạt hơn hoặc xám
trắng. Mắt đen, đầu nhỏ, cổ dài, lưng khum, bụng hơi xệ, 4
chân dài, xương to, thân hình không chắc chắn như thỏ đen.
3.2.
Đặc điểm sinh lý của thỏ
Thỏ
rất nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh, khả năng thích
ứng với môi trường kém. Thân nhiệt của thỏ thay đổi theo
nhiệt độ không khí môi trường. Thỏ có ít tuyến mồ hôi dưới
da, cơ thể thải nhiệt chủ yếu qua đường hô hấp. Thân
nhiệt, tần số hô hấp, nhịp đập của tim đều liên quan
thuận với nhiệt độ không khí môi trường. Cơ quan khứu giác
của thỏ rất phát triển, thỏ mẹ có thể phân biệt được
con đàn khác đưa đến bằng cách ngửi mùi. Thỏ rất thính và
tinh, trong bóng tối thỏ vẫn nhìn thấy để ăn uống bình thường
và phát hiện được những tiếng động rất nhỏ.
Sinh
lý tiêu hoá: Thỏ là gia súc có dạ dày đơn, dạ dày thỏ co giãn
tốt nhưng co bóp yếu. Các chất dinh dưỡng được phân giải
nhờ các men tiêu hoá của dạ dày và ruột sê được hấp thụ
chủ yếu qua ruột non. Ruột già chủ yếu hấp thụ các muối và
nước. Manh tràng lớn gấp 5-6 lần dạ dày, là nơi dự trữ và
tiêu hoá chất xơ nhờ hệ vi sinh vật.
Sinh
lý sinh sản: Thỏ đẻ 1-3 ngày là động dục trở lại, chu kỳ
động dục của thỏ thay đổi thất thường, đôi khi không động
dục, sau khi giao phối 6-9 giờ trứng mới rụng.
Thỏ
sơ sinh chưa có lông, sau 1 ngày tuổi bắt đầu mọc lông tơ, ba
ngày tuổi thì có lông dày, ngắn 1 mm, năm ngày tuổi lông dài
5-6 mm và 20-25 ngày tuổi bộ lông được phát triển hoàn toàn.
Thỏ con mở mắt vào 9- 12 ngày tuổi.
4.
Khả năng sản xuất
4.1.
Khả năng sinh trưởng
Tầm
vóc thỏ nội bé hơn so với thỏ ngoại nhưng có khả năng chịu
đựng được điều kiện kham khổ và dinh dưỡng thấp, khối lượng
trưởng thành 3-5,5 kg.
Khối
lượng cơ thể thông qua các mốc tuổi
Chỉ
tiêu |
Đơn vị tính |
Trung
bình |
Khối
lượng sơ sinh |
G |
50-55 |
Khối
lượng 21 ngày tuổi |
G |
200-220 |
Khối
lượng 30 ngày tuổi |
G |
270-300 |
Khối
lượng trưởng thành |
kg |
3-3.5 |
4.
2. Khả năng sinh sản
Thỏ
nội mắn đẻ, một năm có thể đẻ tới 6-7 lứa nếu nuôi dưỡng
và chăm sóc tốt. Thời gian động dục lại sau khi để rất
ngắn nên nếu nuôi dưỡng chăm sóc tốt và cho phối giống sớm
sau khi đẻ thì khoảng cách hai lứa đẻ chỉ còn 40-45 ngày.
Một
sô' chỉ tiêu về khả năng sinh sản của thỏ
Chỉ
tiêu |
Đơn vị tính |
Trung
bình |
Tuổi
động dục và phối giống lần đầu |
Tháng |
4-5 |
Chu
kỳ động dục |
Ngày |
10-16 |
Thời
gian kéo dài động dục |
Ngày |
3-5 |
Thời
gian mang thai |
Ngày |
28-34 |
Số
con đẻ ra/lứa |
Ngày |
6-9 |
Số
lứa đẻ/năm |
con |
6-7 |
4.3.
Khả năng cho sữa
Thỏ
to khoẻ có thể cho lượng sữa 100- 160 gam, sữa lứa đầu ít hơn
các lứa sau, trong một chu kỳ thì lượng sữa tăng dần, kể
từ khi đẻ đến ngày 15-20 thì lượng sữa là cao nhất và sau
đó giảm dần:. Thời điểm cạn sữa tuỳ thuộc vào thời gian
đẻ lứa sau, thường từ 4-5 tuần, sản lượng sữa còn tuỳ
thuộc vào chế độ dinh dưỡng. Sữa thỏ đậm đặc và chất lượng
cao hơn sữa bò.
4.4.
Khả năng cho thịt
Thỏ
đẻ nhanh, nếu nuôi dưỡng tốt mỗi thỏ cái mỗi năm đẻ 6-7
lứa, mỗi lứa 6-7 con, sau 3 tháng nuôi khối lượng giết thịt
1,7-2 kg, như vậy một thỏ mẹ có thể sản xuất 70-80%kg thịt
thỏ/ năm.
Thỏ
cho tỷ lệ thịt xẻ 46-49% tỷ lệ thịt lọc/ thịt xẻ là 85-86%.
Thịt thỏ giàu và cân đối chất dinh dưỡng: tỷ lệ đạm
21%, mỡ 10%, khoáng 1,2%.
Ngoài
những khả năng sản xuất trên, thỏ còn có khả năng cung cấp
lông da để sản xuất quần áo, mũ lông, Thỏ còn được dùng làm
động vật thể vàng, động vật kiểm nghiệm thuốc và chế
vạc xin trong y học.
5.
Tính trạng đặc biệt
Sinh
sản cao là đặc điểm lớn nhất của thỏ nội. Khả năng liêu
hoá thức ăn xanh làm cho chi phí nuôi thỏ trong dân thấp, dễ
mở rộng sản xuất nếu được tiêu thụ tốt.
6.
Công tác bảo tồn nguồn gen
Giống
thỏ Việt Nam còn rất phổ biến, hơn nữa công tác lai giống
rất ít nên chủ yếu là dùng phương pháp in-situt.
(Bảo tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam - Tập I - Phần Gia súc - Chủ
biên - GS. Lê Viết Ly)
Nuôi
thỏ dễ giàu
Trung Quốc là nước xuất khẩu thịt thỏ đứng đầu thế giới,
mỗi năm thu về lượng ngoại tệ không dưới 500 triệu USD. Còn
Hungary- “Quê hương” của thỏ, có nhiều trang trại thỏ tư nhân
nuôi từ 10.000-20.000 con. Xem ra, nuôi thỏ không khó mà lại rất
nhanh thu hồi vốn. Vậy tại sao không phát triển rộng rãi việc
nuôi thỏ ở nước ta...
Có lẽ trở ngại lớn nhất vẫn là hạn chế về cách nhìn nhận.
Nông dân ta ai cũng nghĩ thỏ là con vật nhỏ, không chiếm giữ
vị trí nào trong các giống vật nuôi gia đình, nên ít người
quan tâm. Thậm chí có người còn đánh đồng thịt thỏ với
thịt chuột và coi đây là loại thực phẩm không hợp vệ sinh.
Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Nuôi thỏ rất kinh tế và thịt
thỏ ăn rất tốt, có tác dụng hạ huyết áp. Theo Thạc sĩ Chu
Đình Khu (Viện Chăn nuôi) với 2 giống thỏ California và New
Zealand mà Viện nhập ngoại về nuôi trong 18 tháng đủ đạt 5-
6kg/con, trong khi giá 1 kg thỏ hơi từ 15.000 - 18.000 đồng/kg (giá
thành làm ra 2kg thỏ hơi chỉ mất 10.000 đồng). Như vậy, một
gia đình nuôi 20- 30 con thỏ, chiếm diện tích không đáng kể. Có
thể thu lãi 500.000 đồng/3 tháng, 1,5 đến 2 triệu đồng/năm.
Thỏ dễ ăn, mắn đẻ. Theo ông Khu, thỏ nuôi 6 tháng đủ đẻ,
mỗi năm đẻ từ 6- 7 lứa, mỗi lứa 6- 8 con, thậm chí 10 con. Như
vậy, một năm nuôi thỏ mẹ đẻ không dưới 40 thỏ con, nuôi
lớn sẽ đạt 1,2 tạ thịt. Ngoài 2 giống thỏ ngoại, Viện
vẫn duy trì nuôi giữ 2 giống thỏ nội đen và xám. Tuy đẻ ít
con hơn, trọng lượng thấp hơn nhưng thỏ nội nuôi vần còn lãi
vì chúng chịu đựng được kham khổ. Mỗi ngày thỏ ăn từ 0,7
- 1kg cỏ, 120g cám. Nhằm bổ sung thêm đàn thỏ giống trong nước,
tháng 12-2000, Viện Chăn nuôi lại cho phép nhập thêm 250 thỏ
giống gồm các giống New Zealand White, California và Panol từ
Hungary về. Đàn thỏ giống đã giúp làm tươi máu những con
thỏ nhập nội từ trước đó bằng cách dùng thỏ đực mới
nhập phối giống với thỏ cái cũ. Như vậy, cho đến nay, Viện
Chăn nuôi đã có đàn thỏ cái giống 500 con trên tổng đàn 3.000
con. Đây là nguồn giống thỏ hết sức quý giá, góp nhân nhanh
đàn thỏ có năng suất cao bán ra cho người chăn nuôi (năm 2002 bán
ra 5.564 con).
Trung
tâm Nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây được Viện Chăn nuôi giao
giữ và nhân giống thỏ. Nhờ các hoạt động tuyên truyền,
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật từ những năm 1990, Trung tâm đã
phát triển được phong trào nuôi thỏ ở nhiều tỉnh như Hải Dương,
Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Hà Tây, Hà Nội...; đã có gia đình
ở Hà Nội nuôi hàng trăm con thỏ sinh sản. Nguồn phân thỏ được
trang trại này tận dụng bón cho hoa, nuôi giun. Điều đặc biệt
là khi bón phân thỏ, các cánh hoa sẽ đậm màu hơn và không bao
giờ bị xoăn. ông Khu lưu ý, thỏ hay mắc 3 thứ bệnh, trong đó
2 bệnh cầu trùng và ghẻ đã có thuốc điều tri, riêng bệnh
bại huyết có thể làm thỏ chết hàng loạt hiện vẫn chưa có
thuốc đặc trị. Trung tâm đang phối hợp với Viện Thú ý nghiên
cứu tìm ra vaccin đặc trị loại bệnh này. Tuy vậy, theo ông Khu
cứ cho thỏ "ăn chín uống sôi" đảm bảo chúng rất ít
bệnh tật.
Triều Dương - Báo nông thôn, số 47,
24/3/2003
Cách nuôi thỏ có thu nhập cao
Anh Nguyễn Văn Mai ở Vĩnh Hưng, Vĩnh Thạnh Trung, Châu Phú (An giang)
có cách nuôi thỏ như sau:
Anh đóng lồng thỏ dài, có kích thước
khoảng 0,5m, cao 0,5m và ngăn ra từng ô có chiều dài 0,5m.
Tùy
theo vị trí đặt lồng nuôi thỏ mà số ô nhiều hay ít. Khung
lồng làm bằng gỗ tạp, lưới chì lỗ vuông loại 1,5cm bao
quanh, nắp lồng ở phía trên, cài, mở dễ dàng.
Phía dưới
lồng thỏ nếu không phải là sàn xi măng thì nên lót thiếc, đặt
nghiêng để dễ quét dọn vệ sinh chuồng trại.
Anh Mai cho thỏ
ăn 3 cữ/ ngày. Mỗi lần ăn, cỏ được anh bó chặt chừng một
nắm treo lơ lửng trên nắp chuồng, nên thỏ muốn ăn phải đứng
lên mà ăn. Khi ăn, cọng rau cỏ nào rơi xuống, thỏ sẽ gậm
ngay cho hết mới đứng lên ăn tiếp rau cỏ trong nắm đang treo
(vì dễ hơn đứng ăn).
Nếu không treo từng nắm rau cỏ, khi ăn
thừa, thỏ ỉa, đái khiến cỏ dính nước tiểu và phân nó sẽ
chê, thà nhịn đói chớ không ăn thức ăn đă dính phân hay
nước tiểu. Chính vì vậy, mà người không biết, nuôi thỏ
tốn nhiều rau cỏ... Anh Mai cho biết, thỏ có thai khoảng 29 ngày
thì chuyển bụng, cắn lông, lót ổ, cào vách lồng nuôi, một đến
hai ngày sau sẽ đẻ.
Anh Mai đặt ổ làm bằng gỗ, kích thước
khoảng 30cm x 30cm , có vách ổ cao khoảng 7 - 10cm, trong đó có lót
giấy xé nhỏ thành sợi, hay vải vụn để thỏ mẹ ít cắn lông
lót ổ ủ ấm thỏ con.
Thỏ con sinh ra da đỏ hỏn như chuột,
mỗi lần đẻ khoảng từ 4 - 10 con. Nuôi nhiều thỏ mẹ đẻ cùng
ngày có thể tách bầy nhiều sang bầy ít, để mỗi bầy khoảng
5 - 7 thỏ con là vừa để thỏ mẹ đủ sữa nuôi con lớn đều
- Tách ngay sau khi đẻ, đểvài ngày sau mới tách nó sẽ phát
hiện ra (có lẽ là mùi) không phải con của mình, nó sẽ cắn
chết.
Thỏ con bú sữa mẹ khoảng 5 đến 8 ngày. 10 - 15 ngày
sau, thỏ con vừa bú sữa thỏ mẹ vừa tập ăn cỏ và
lớn nhanh, lanh lẹ dần. Vì thỏ
mẹ sau khi sinh con khoảng 30 giờ sau là có thể cho thỏ đực
phủ nọc, chỉ cần 2- 3 lần là đủ, nếu sau đó 7 ngày, thả
thỏ cái vào lồng thỏ đực mà thỏ cái không chịu nọc lại là
nó đã mang thai.
Bầy thỏ con sinh được 24 ngày, anh Mai cho trộn
thuốc chống cảm cúm, chống tụ huyết trùng trong cơm cho chúng
ăn dần dần - đến ngày thứ 27, anh Mai bắt thỏ cái đưa sang
lồng khác chuẩn bị lót ổ cho đẻ lứa tiếp theo.
Anh Mai cho
biết, thỏ con rất dễ dị ứng khi thay đổi môi trường, nếu
không trộn thuốc trong cơm cho thỏ con ăn và tách bầy bằng cách
bắt thỏ con đi, dời sang chuồng khác, chúng rất dễ chết. Chính
điều này, nhiều người nuôi thỏ hay mắc phải, thiệt hại, không
hiệu quả. Thỏ con thôi bú, ăn cơm và rau cỏ khoảng 5 ngày sau
là có thể bán. Mỗi con lúc này cân
nặng khoảng 300 - 400g tùy theo bầy nhiều hay ít. Sau khi tách
bầy, cho thỏ ăn cỏ, mỗi tháng tăng trọng khoảng 350 - 450g/con.
Sau khi đẻ được 5 tháng, thỏ có thể cân nặng khoảng 2 đến
2,2kg/con là có thể phối giống để sinh sản.
Mai Bửu Minh - Báo nông nghiệp, số 37, 5/3/2002
Nuôi
thỏ
Để nuôi thỏ đạt năng suất cao, phải hội đủ
các yếu tố sau: Giống tốt và có kỹ thuật phối giống: thức
ăn đủ số lượng, chất lượng, và kỹ thuật nuôi dưỡng: vệ
sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại đúng kỹ thuật: lồng nuôi,
ổ đẻ nhà nuôi thiết kế đúng tiêu chuẩn kỹ thuật…
Giống và kỹ thuật phối giống
Để có giống tốt nên mua thỏ giống ở những gia đình chuyên
nuôi thỏ sinh sản hoặc các trại thỏ. Thỏ bố mẹ mỗi năm đẻ
5 - 6 lứa trở lên, mỗi lứa đẻ 6 - 7 con, nuôi đến khi xuất
chuồng được 5 con tốt. Thỏ cai sữa lúc 30 - 32 ngày tuổi đạt
trọng lượng 400 -500 gram/con. Thỏ trưởng thành cho phối giống
lần đầu khi trọng lượng đạt 2 - 3 kg (tuỳ thỏ nội hoặc
thỏ lai). Thỏ giống ngoại hình đẹp, đùi to, mông nở, lưng
rộng, thân to, cổ ngắn, da mềm. Thỏ cái có 8 - 10 vú đều, đầu
vú to rõ; thỏ đực hai hòn cà lộ rõ, đều, dương vật thẳng.
Thỏ cái ba tháng tuổi đã có khả năng sinh đẻ, nhưng phải để
sáu tháng tuổi mới cho phối giống (thỏ nội có thể năm tháng).
Thỏ cái động dục quanh năm, nhưng mùa xuân, mùa thu thỏ đẻ
tỷ lệ cao, tỷ lệ nuôi sống sau cai sữa cao hơn, thỏ đực ít
chịu phối giống khi thời tiết oi nóng. Phối giống cho thỏ tốt
nhất vào lúc sáng, trời mát, thường người ta cho thỏ phối 2
lần/ngày (mỗi lần cách nhau 4-6 giờ), tỷ lệ thụ thai cao, số
con đẻ ra nhiều.
Thức ăn và nuôi dưỡng
Nuôi thỏ hoàn toàn bằng lá cây, cỏ, rau, thỏ sẽ lớn chậm,
tăng trọng ít, không kinh tế. Nếu nuôi thỏ hàng hóa cần phối
hợp cho ăn thêm các loại hạt ngũ cốc (thóc lép, ngô, đậu)
hoặc thức ăn tinh hỗn hợp bán sẵn, dạng bột, dạng viên (Trung
tâm Nghiên cứu dê và thỏ Sơn Tây, Hà Tây và Công ty Thức ăn
Guyomare' H-VCN Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội đều có sản xuất).
Thỏ nuôi sau cai sữa (30 ngày tuổi) khoảng 70 ngày là ăn thịt
được.
Thỏ rất thích ăn đêm, lượng rau cỏ buổi tối của thỏ thường
chiếm 2/3 khẩu phần ăn hàng ngày. Thức ăn thừa phải loại bỏ
không được dùng cho ăn vào hôm sau. Khoai lang tươi, bí đỏ, cà
rốt thái miếng cho ăn ban ngày 40-50g/con đều được. Thức ăn
tinh cho ăn lúc 7-8 giờ. Một phần ba cỏ rau còn lại cho ăn lúc
9-11 giờ. Củ, quả cho ăn từ 14-15 giờ. Buổi tối cho ăn 1/3 số
rau, cỏ, đến 21 - 22 giờ cho ăn hết số rau, cỏ còn trong ngày.
Vệ sinh thức ăn, nước uống
Cho thỏ uống nước máy, nước giếng khoan không có mùi tanh
sắt... Rau cỏ rửa xong để ráo nước mới cho thỏ ăn. Mỗi ngày
thỏ trưởng thành cần uống 0,6-0,8 lít nước/con, thỏ nhỡ 0,3 lít/con.
Lồng nuôi, ổ đẻ, nhà nuôi:
Lồng thỏ làm theo kiểu hộp có kích thước 40x60x50cm. Nguyên
liệu có thể làm bằng tre, gỗ.v.v... Đáy dưới làm bằng lưới
mắt cáo có đường kính 1 cm thì phân sẽ lọt, dọn vệ sinh dễ
dàng. Ổ đẻ có thể làm bằng cát-tông, cót ép, gỗ mỏng nhẹ.
Đóng thành khay chiều cao 4 thành chung quanh 35cm, thỏ nhảy vào cho
con bú dễ dàng.
Nhà nuôi thỏ phải cao thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông.
Chung quanh nhà quang đãng, sạch sẽ tránh có cây cối um tùm nơi trú
ẩn của muỗi, chuột... là động vật, côn trùng truyền bệnh cho
thỏ. Nhà nuôi thỏ có độ ẩm 60-70% là phù hợp, nhiệt độ không
khí từ 25 - 28 độ C là tốt.
Kỹ sư Nguyễn Ngọc Nam
(Báo Nông thôn ngày nay)
Cách nuôi thỏ cái, thỏ sơ sinh
Thỏ thường đẻ vào ngày thứ 30 sau ngày phối giống, có thể sớm muộn hơn 2 - 3 ngày. Trước khi đẻ 1 - 2 ngày, thỏ mẹ vào ổ đẻ cào bới ổ rồi nhổ lông trộn lẫn với đồ lót tạo thành tổ ấm rồi đẻ con vào đó, lấy lông đậy kín lại. Một số thỏ mẹ đẻ lứa đầu không biết nhổ lông làm ổ, hoặc đẻ con ra...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.