Kỹ thuật nuôi cá song (cá mú)
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Kỹ thuật nuôi cá song (cá mú)
Kỹ thuật nuôi cá song (cá mú)
I. GIỚI THIỆU
Cá song thuộc loài cá
vùng nước ấm, phân bố ở biển nhiệt đới, á nhiệt đới,
phân bố rất ít ở vùng ôn đới. Vùng biển Thái Bình Dương có
tới 37 loài, Trung Quốc có 31 loài, Nhật Bản có 25 loài, Đài Loan
có 27 loài, Hồng Kông có 17 loài.
Ở
nước ta cá song (còn gọi là cá mú) có trên 30 loài (theo
Viện Hải Dương Học Nha Trang), trong đó có các loài có giá trị
kinh tế, giá trị xuất khẩu cao là:
1. Cá song đỏ Epinephelus akaara
2. Cá song hoa nâu E. fuscoguttatus
3.
Cá song vạch E. brunneus
4. Cá song chấm tổ ong E. merra
5. Cá song mỡ E. tauvina
6. Cá song đen E. heeberi
7. Cá song cáo E. megachir
- Vùng
biển vịnh Bắc bộ có cá song mỡ, song đen, song cáo.
- Vùng
biển miền Trung có cá song đỏ.
- Vùng
biển Đông và Tây Nam bộ có song đỏ, song mỡ.
Cá
song thường sống ở các hốc đá, các áng, vùng ven bờ quanh các
đảo có rạn đá san hô, thường ở độ sâu từ 10 - 30m, chịu đựng
được độ mặn rộng từ 11 - 41‰. Phạm vi nhiệt độ thích
hợp từ 22 - 28oC thích hợp nhất là từ 25-28oC, ở nhiệt độ
18oC cá bắt đầu ít ăn, ở nhiệt độ 15oC, cá gần như ngưng
hoạt động.
Cá
song thuộc nhóm cá dữ ăn mồi động vật. Thường rình bắt mồi
ở nơi yên tĩnh. Cá song tranh ăn dữ dội, con lớn lấn át con bé,
khi đói thiếu mồi ăn, chúng ăn lẫn nhau. Đặc tính này thể
hiện ngay ở giai đoạn cá con, vì vậy trong quá trình nuôi phải
thường xuyên san cỡ đồng đều nuôi riêng.
Cá
song đẻ trứng nổi, có hạt dầu ở trong. Mùa đẻ của cá song
vùng phía Bắc vào tháng 5,7. Vùng miền Trung vào tháng 12,3. Cá song
thuộc nhóm cá chuyển giới tính đực cái, khi còn nhỏ đều là
cá cái, khi lớn đều là cá đực như cá song mỡ, cá dưới 50cm
đều là cá cái, khi đạt 70cm trở lên chuyển thành cá đực.
Cá
song mới nở ăn động vật phù du. Cá lớn ăn tôm, cá con. Cá thường
rình bắt mồi sống, không ăn mồi chết, không ăn mồi chìm ở đáy.
Nuôi trong lồng thường cho ăn thức ăn hồn hợp. Dùng thịt
nhuyễn thể, thịt cá, cua tươi xay nhuyễn hoặc băm nhỏ để cho
ăn.
Nguồn cá
song giống được khai thác từ tự nhiên. Với cá cỡ nhỏ từ
1-2cm gọi là “cá hạt dưa”. Ương nuôi lên giống 8-12cm nuôi
trong 8-10 tháng đạt cỡ trên 500g thì xuất bán.
II. ƯƠNG NUÔI CÁ SONG GIỐNG
Cá song giống cỡ 9-12cm
bắt trong tự nhiên đưa vào lồng nuôi thành cá thịt thương
phẩm thường là quy cỡ không đều, số giống gom không tập
trung, thời vụ thả giống kéo dài. Mặt khác, quá trình khai thác
vận chuyển cá thường bị sây sát. Trong những năm gần đây, ngư
dân miền Trung đã có kinh nghiệm gom cá song nhỏ, “cá hạt dưa”
cỡ 1-2cm để ương thành cá giống lớn, cung cấp số lượng
giống nhiều, tập trung đúng thời vụ, cá đồng cỡ, khoẻ mạnh
cho các lồng nuôi cá thịt.
1. Ương cá giống
trong ao:
* Địa điểm
làm ao: Chọn vùng bãi triều đáy là cát bùn, nước có độ mặn
từ 10‰ trở lên, có điều kiện thay nước thuận lợi để làm
ao.
* Diện tích ao:
Từ 100-500m2, mực nước sâu từ 1-1,5m. Tuỳ theo nguồn giống thu
được thường xuyên ít hay nhiều để xác định diện tích ao.
* Cống ao: Ao
có cống lấy và tháo nước để thường xuyên có thể thay nước.
Phía trước cống đào sâu hơn đáy ao từ 25-33cm với diện tích
bằng 1/10 - 1/15 diện tích đáy để khi tháo nước thu hoạch cá
sẽ tập trung ở đây.
* Vệ sinh
ao, bón lót: Bón lót: 100m2 ao, dùng 7-15kg vôi để diệt cá tạp,
sinh vật có hại và cải tạo nền đáy ao, ao chua có thể dùng
nhiều vôi hơn. Để khi thả cá xuống ao cá có mồi ăn ngay, tẩy
vôi được một ngày sau lấy nước vào ao (20-30 cm), bón lót phân
chuồng cứ 100m2 ao bón 30-40kg phân hữu cơ, sau đó dâng dần mức
nước lên, 3 ngày sau thả cá.
* Mật độ
thả: 30-50 con/m2
* Cho ăn, chăm
sóc, quản lý: Sau khi bón lót, hàng tuần bón thúc một lần phân
chuồng với lượng 10-15kg/100m2. Hàng ngày cho ăn thức ăn thịt
nhuyễn thể, cá tươi, tôm tươi nghiền nhuyễn, có thể vớt
ruốt tươi rửa sạch cho ăn. Ngày cho ăn 3-4 lần, lượng cho ăn
bằng 5-10% trọng lượng cá, cần theo dõi: sức ăn của cá, thời
tiết để điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày. Khi cho ăn vãi
từ từ, hạn chế thức ăn chìm xuống đáy, cho ăn ở 2-3 điểm.
Hàng ngày thay khoảng 20-30% nước ao. Theo dõi hoạt động của cá.
* Thu hoạch:
Ương được 2-3 tháng cá đạt cỡ 9-12cm bắt đầu thu. Lúc
đầu có thể thả bóng, lờ, ống nhựa để thu tỉa, sau đó rút
nước thu ở khu tập trung.
2. Ương giống trong
lồng:
* Chọn vùng ương:
chọn vùng ven bờ eo, vịnh, đầm áng khuất gió, sóng nhẹ, yên tĩnh,
nguồn nước không bị ô nhiễm, điều kiện chăm sóc quản lý
thuận tiện.
Độ mặn
của nước dao động từ 10‰ trở lên.
Độ sâu nơi đặt lồng khi triều kiệt là 2m.
Nhiệt độ nước từ 20oC trở lên, thích hợp nhất là 25-28oC.
* Thiết kế lồng
nuôi:
Dùng gỗ chịu mặn có đường kính 8-10cm, dài 4-4,5m làm cọc đống
sâu xuống nền đáy theo hình chữ nhật hoặc hình vuông. Mỗi
cọc cách nhau 1-2m. Đóng cọc đứng xong đóng nẹp ngang để giữ
cho khung cọc vững chắc.
Dùng lưới nylon sợi thô (1-2mm) không có gút, mắt lưới nhỏ hơn
chiều cao thân cá.
Cỡ
cá (cm)
Kích thước mắt lưới (2a=cm)
2-5
0,5
6-15
1,0
16-30
2,0
31-50
5,0
Trên
50
8,0
Lưới may thành giai, cột cố định trong khung gỗ. Mặt trên
của giai có nắp bằng lưới mắt thưa. Đáy giai may 2 lớp lưới.
Chiều cao của giai 2m khi cố định giai vào cọc phải cách đáy
ít nhất 40cm, phần ngập trong nước là 1,5m, phần cao hơn mặt nước
0,5m.
Diện tích lồng có thể làm to nhỏ tuỳ theo nguồn giống thường
xuyên gom được. Thường làm kích cỡ lồng:
(4 x 2 x 2); (3 x 1,5 x 2); (10 x 5 x2) Hoặc: (2 x 2 x 2); (3 x 3 x 3).
* Mật độ thả: 50-70
con/m3
Thường thả cá giống vào tháng 12,1 và 2. Trước lúc thả giống
thường tắm cho cá bằng thuốc xanh malaxit (Malachite green) với
nồng độ 5-10 ppm (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ
20/2003/QĐ-BTS) trong 5-10 phút.
* Cho ăn, chăm sóc, quản
lý:
Dùng thịt nhuyễn thể, cá, tôm tươi nghiền nhuyễn cho ăn, có
thể vớt ruốc, tép tươi rửa sạch cho ăn.
Ngày cho ăn 3-4 lần, lượng cho ăn bằng 5-10% trọng lượng cá.
Cần theo dõi sức ăn của cá, theo dõi thời tiết để điều
chỉnh lượng cho ăn hàng ngày, khi cho ăn vãi từ từ, hạn chế
thức ăn chìm xuống đáy, cho ăn ở 2-3 chỗ trong lồng.
Ương được 15-20 ngày phải phân cỡ san cá một lần.
* Thời gian ương:
Ương khoảng 1,5-2 tháng
sau cá đạt 8-10cm thì thu hoạch.
III. NUÔI CÁ SONG THỊT
TRONG LỒNG
1. Chọn vùng
nuôi:
Chọn các vùng eo, vịnh,
đầm, phá khuất gió, sóng nhẹ. Nước độ mặn dao động từ
10-33‰, nhiệt độ nước từ 20oC trở lên. Mức nước sâu khi
triều kiệt là 1-2m, nguồn nước trong sạch không bị ô nhiễm
bởi nước thải công nghiệp, thuốc trừ sâu... để nuôi.
2. Thiết kế lồng
nuôi:
a. Lồng lưới cố định:
Dùng gỗ
chịu mặn có đường kính 10 -15cm, dài 4 - 4,5m đóng cọc xuống
nền đáy nền đáy theo hình vuông hoặc hình chữ nhật, tuỳ theo
diện tích nuôi. Mỗi cọc cách nhau từ 1-2m sau khi đóng cọc, đóng
các nẹp gỗ ngang để giữ cố định các cọc. Dùng lưới nylon
sợi thô 1-2mm, mắt lưới 2a = 2-8cm may thành giai. Đáy giai có hai
lớp lưới để bảo vệ. Nắp giai là lưới thưa và có cửa ra
vào để kiểm tra.
Giai được
cố định trong khung gỗ bởi các dây giềng ở các góc. Đáy giai
cách nền đáy 40-60cm, phần ngập trong nước là 1,5m, phần cao hơn
mặt nước là 0,5m. Mỗi giai có thể tích 30-70m3.
b. Lồng lưới trên bè:
Kết cấu
lồng nuôi yêu cầu như đối với lồng lưới cố định. Về
kích cỡ, lồng nuôi cá giống, thường là 2 x 2 x 2m hoặc 3 x 3 x
3m. Kích cỡ lồng nuôi cá thịt thường là 3 x 3 x 3m hoặc 4 x 4 x
3m.
- Cấu trúc bè nuôi:
(1) Khung bè: Là gỗ
ván xẻ chịu nước thuộc nhóm gỗ 2 hoặc 3. Ván xẻ dài khoảng
8m, rộng 0,20m, dày 1,2 - 1,5cm. Ván gỗ ghép nối với nhau bằng bu
lông 10 -12cm, 12 thanh xà ghép lại thì được một ô lồng gồm 4
lồng lưới (hình 1a, b). Nhiều ô lồng ghép lại thành bè.
(2) Phao: Khung bè
được nâng nổi lên trên mặt nước nhờ hệ thống phao. Phao là
thùng nhựa hoặc phao xốp.
Phao 200 lít dùng 5-7 chiếc cho một ô lồng. Phao xốp 80 x 60 x 50cm
có sức nổi 250kg. Phao buộc dưới gỗ ván
(3) Neo: 4 góc bè có
neo cố định (25-50kg/cái), dùng dây nylon Æ = 25-30mm để neo bè.
Trên bè
dành một diện tích nhất định làm kho chứa (thức ăn, lưới
cụ, máy bơm...), nhà làm việc (kiểm tra môi trường, dịch bệnh,
theo dõi thời tiết...) và lán bảo vệ.
Bè nuôi cá
biển như một xí nghiệp nuôi thu nhỏ đồng thời có thể di
chuyển, tổ chức nuôi ở vùng nước sâu, nuôi nhiều loài cá,
nuôi nhuyễn thể (trai cấy ngọc).
c. Lồng
tre:
Ngư dân vùng đầm phá
Tam Giang - Thừa Thiên Huế có kinh nghiệm làm lồng bằng tre
là nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương. Giá thành làm
lồng hạ. Nan tre dày 1cm, rộng 3-4cm, dài 1,5-2m tuỳ theo độ sâu nơi
đặt lồng, chiều cao của nan có thể từ 1,5-2m.
Lồng làm
theo hình tròn có đường kính 2,5-2,8m, cao 1,5m. Các nan tre bện cước
Æ = 0,18cm, nan cách nan 1,2cm, mỗi đường bện cách nhau 20cm, gồm 3
đường bện, đáy lồng là sạp tre đan khít.
Nắp lồng
là một cửa rộng kích thước 60 x 60cm để ra vào kiểm tra bên
trong.
Có nơi làm
lồng theo hình bầu dục, lồng cao 0,9-1,8m. Đáy lồng là sạp tre,
nắp lồng bằng lưới. Với lồng cao 1,8m thì phân nửa dưới
lồng bằng tre cao 90cm, phần trên là lưới cao 90cm. Chính giữa
nắp lưới ở trên có một ống nhựa để thả thức ăn vào
lồng, không làm cửa.
+ Vị trí đặt lồng:
Đặt lồng
nơi có dòng chảy nhẹ, có lưu tốc 0,2-0,4m/giây, mức nước sâu
2,5m. Nước sạch không bị ô nhiễm bởi nước thải công nghiệp,
hoá chất độc hại.
Lồng được
treo trên 4 cọc, cách đáy 0,4-0,5m, cách mặt nước 0,3-0,4m.
3. Vận chuyển giống:
a. Xử lý cá trước khi
vận chuyển:
* Xả hơi trong bong bóng
cá: Cá song giống khai thác ở độ sâu khoảng 8m nước. Vì vậy
để giảm chênh lệch về áp suất bên ngoài với cơ thể cá,
phải dùng kim châm chọc vào bóng hơi để xả hơi trong bóng hơi
cho cá thích nghi với áp suất bên ngoài.
Dùng kim chọc qua gốc
vây ngực với độ nghiêng 1,5-2,5cm (tuỳ cỡ cá to nhỏ) về phía
lưng, thấy có tiếng xì hơi là được.
* Nuôi tạm: Cá bắt được
nuôi tạm 1-2 tuần trong lồng hoặc thuyền thông thuỷ 1-2 tuần
rồi vận chuyển.
Hai ngày đầu không cần
cho ăn, từ ngày thứ 3 bắt đầu cho ăn, lúc đầu cho ăn ít, sau tăng
dần.
Trong lúc vận chuyển
phải cho cá nhịn ăn 2 ngày và phải tắm phòng bệnh cho cá.
* Tắm phòng bệnh:
Tắm trong dung dịch
Furacin 0,05% từ 3-5 phút.
Tắm trong dung dịch KMnO4
0,15 ppm 5-10 phút.
Tắm nước ngọt sạch
10-15 phút.
Loại bỏ những con bị
sây sát nặng, cơ thể yếu.
b. Vận chuyển:
* Vận
chuyển bằng túi nylon: Thời gian vận chuyển dưới 12 giờ có
thể dùng túi nylon.
Mật độ:
với cỡ cá 4cm - cá tráp đóng 400-600 con/ túi; cá vược 200-300
con/túi.
* Vận
chuyển bằng thuyền thông thuỷ: thời gian vận chuyển khoảng 24
giờ dùng thuyền thông thuỷ để vận chuyển. Thời gian quá 24
giờ phải thay nước trong thuyền. Nước dùng để thay phải đảm
bảo có độ mặn, nhiệt độ phù hợp với nước trong thuyền.
Mật độ
vận chuyển: Cá song cỡ 100-150g/con thả 70-75
con/m3.
Cá tráp, cá vược cỡ
4cm thả 1.000 - 1.500 con/m3.
4. Giống
nuôi:
Chọn giống khoẻ mạnh,
sắc cá đẹp, không xây sát.
5. Mật độ
thả:
Phân loại
nuôi theo từng lồng với cỡ đều nhau.
- Vùng Thừa Thiên Huế thường
nuôi cá song ghép với cá hồng, cá dìa, mật độ nuôi từ 30-45
con/m3.
Lồng 6-9m3 ương 200-300
con/lồng. Trong đó cá song cỡ 8cm, nặng 70-100g, cỡ 12cm nặng 150g,
cá dìa cỡ 2cm nặng 1,3g, cá hồng 6cm nặng 50g.
- Vùng sông Cầu nuôi
trong lồng lưới chỉ nuôi cá song và thả với mật độ thưa:
cỡ 8-12cm thả 15-30 con/m3.
- Vùng có nhiệt độ
thấp phía Bắc, thả với mật độ dày hơn 40-50 con/m3, trung bình
1m3 nước có thể thả 8-12kg cá giống.
Thường
thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát. Trước khi cho cá vào
lồng cần tắm phòng cho cá bằng thuốc xanh (Malachite green) với
liều lượng 5-10g/m3 nước (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ
20/2003/QĐ-BTS), tắm trong 15-20 phút.
6. Cho ăn:
Cho ăn
nhuyễn thể tươi, cua, ghẹ, cá băm nhỏ, lượng cho ăn bằng 5-10%
trọng lượng cá. Ngày cho ăn hai lần vào sáng sớm và chiều
tối. Khi cho ăn vãi thức ăn chậm, hạn chế thức ăn chìm xuống
đáy, cho ăn ở 2-3 điểm hoặc rải đều khắp lồng.
Cá đói thường
lao lên mặt nước bắt mồi, cá no, thời tiết thay đổi đột
ngột thường ít ăn. Những ngày mưa bão có thể cho ăn một lần
trong ngày. Hệ số thức ăn (tươi) với cá song thịt là 7,2 -
11,6.
7. Chăm sóc, quản
lý:
- Hàng ngày theo dõi sức
ăn, hoạt động của cá và môi trường nước. Khoảng 3-5 ngày
cọ rửa lưới một lần cho thông thoáng nước, tăng sức nổi
của lồng.
Với lồng
tre 10 -15 ngày cọ rửa đáy lồng một lần.
- Hàng tháng
phải phân lọc con lớn trội nuôi riêng do cá mú tranh ăn mạnh,
con lớn át con bé. Khi thiếu mồi ăn, đói, chúng ăn lẫn nhau.
- Vào những
ngày khí áp thấp, cá bị ngột phải dùng mái chèo khuấy nước,
chùi rửa lồng cho thông thoáng.
- Khi có dự báo bão phải di
chuyển bè đến nơi an toàn. Buộc chặt lưới, che nắp lồng và
gia cố thêm neo bè..
IV.PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
CHO CÁ
1. Trước lúc thả giống nuôi
phải tắm trong dung dịch xanh Malaxit (Malachite green) với nồng độ
5-10 ppm (5-10g thuốc cho 1m3 nước) (thuốc này đã bị cấm sử dụng theo QĐ
20/2003/QĐ-BTS) . Tắm trong 10-15 phút.
2. Không cho cá ăn tất cả các
loại thức ăn đã ươn thối, đã lên mốc.
3. Vệ sinh lồng lưới: Trung
bình một chu kỳ nuôi phải thay lưới, làm vệ sinh lưới 3-4
lần. Lưới thay ra giặt sạch rồi ngâm vào nước ngọt cho chết
hết rong rêu, đập lưới cho rong rêu rụng ra và rửa lại bằng nước
ngọt cho sạch rồi ngâm vào dung dịch nước rửa (100 lít nước +
1 kg sulfat đồng) trong 2-3 ngày. Rửa lại bằng nước ngọt và phơi
khô.
- Vợt vớt cá và các dụng cụ
vận chuyển cá phải thường xuyên làm vệ sinh sạch sẽ.
4. Phòng trị các bệnh thường
gặp:
Bệnh đốm đỏ,
xung huyết do vi khuẩn gây nên:
Dấu hiệu bệnh: thân
cá, gốc vây ngực, vây lưng, đuôi có nhiều đốm đỏ, lở loét,
hậu môn sưng đỏ, con bị nặng rụng vẩy, có nhiều chỗ lở
loét và chết.
Chữa trị: Tắm cho cá
trong dung dịch thuốc kháng sinh oxy tetraxycline với liều lượng
10g/m3 nước trong 5 -10 phút.
Dùng dung dịch thuốc tím
KMnO4 (10 ppm) rửa sạch vết thương cho cá, sau đó bôi thuốc mỡ
tetraxycline.
Điều trị liên tục
trong 3 ngày. Trộn thuốc oxy tetraxycline với liều lượng 0,5g/kg
thức ăn cho ăn trong 7-8 ngày.
Bệnh hoại sơ: Sau khi đánh
bắt hoặc vận chuyển cá bị nhiễm trùng vết thương. Vết thương
có mủ trắng, thịt bị loét, lan rộng ra toàn thân. Cá bỏ ăn, bơi
lờ đờ rồi chết.
Cách phòng trị: tắm
trong dung dịch oxy tetraxycline 25ppm 5-10 phút, mỗi ngày một lần.
Rửa vết thương bằng
dung dịch Furacin 0,05% 3-5 phút, cách một ngày tắm một lần.
Rửa vết thương bằng
dung dịch KMnO4 0,01%, sau đó lau khô và bôi mỡ tetraxycline vào vết
thương.
Trộn sulfamid vào thức ăn:
100 - 200mg sulfamid cho 1kg cá hoặc 20-50mg thuốc kháng sinh cho 1kg
cá.
Bệnh vi khuẩn đường
ruột: Do vi khuẩn Aeromonas gây nên. Cá bỏ ăn, bơi lờ đờ, ruột
sưng to, cá bị nặng chảy máu ruột rồi chết.
Cách phòng trị: Trộn
thuốc vào thức ăn cho cá ăn 5-7 ngày. Liều dùng 100-200mg sulfamid
cho 1 kg cá, hoặc 20-25mg thuốc kháng sinh cho 1kg cá.
* Bệnh đốm trắng: Do
tiêm mao trùng Ciliata gây nên. Đu và mang cá có nhiều nhớt, cá
khó thở bơi lờ đờ trên mặt nước. Bệnh lây lan nhanh và gây
chết nhiều.
Cách phòng trị: Ngâm cá
trong dung dịch 2ppm sulfat đồng pha nước biển trong 2 giờ. Mỗi
ngày ngâm một lần cho đến khi khỏi bệnh.
- Ngâm cá trong nước
ngọt 3 ngày liền, mỗi ngày một lần, mỗi lần ngâm 4-5 phút.
- Ngâm cá vào dung dịch
Chlorine hoặc KMnO4 5-8 ppm pha với nước ngọt. Ngâm trong 2-3
phút, cách ngày làm một lần.
THU HOẠCH:
Nuôi được 6-8 tháng sau cá đạt
500-800g/con thì thu hoạch. Cần thu hoạch trước mùa lạnh vì ở
nhiệt độ 18oC cá ngừng ăn, không lớn.
Web Ninh Thuận
Kỹ thuật nuôi cá song (cá mú)
.I. GIỚI THIỆU Cá song thuộc loài cá vùng nước ấm, phân bố ở biển nhiệt đới, á nhiệt đới, phân bố rất ít ở vùng ôn đới. Vùng biển Thái Bình Dương có tới 37 loài, Trung Quốc có 31 loài, Nhật Bản có 25 loài, Đài Loan có 27 loài, Hồng Kông có 17 loài. Ở nước ta cá song (còn gọi là cá mú) có trên...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.