Nhân giống và nuôi cá trê
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Nhân giống
và nuôi cá trê
Nhân giống
và nuôi cá trê
Ở Nam bộ hiện nay
có tất cả 3 loài cá
trê. Hai loài phân
bố tự nhiên là cá
trê trắng Clarias
batrachus và cá
trê vàng Clarias
macrocephalus. Loài thứ ba là cá
trê phi Clarias
gariepinus (trước
đây còn có tên khoa
học là C. lazera) được De
Kimpe, một nhà
nghiên cứu nuôi cá
người Pháp nhập vào
nước ta từ đầu năm
1975. Từ Việt Nam,
cá trê phi được nhập
qua Lào, Campuchia,
Thái Lan. Loài này
còn có ở một số
nu7óc Nam Á khác như
Bangladesh. Ở châu
Âu, cá trê phi được
nuôi nhiều ở Hà Lan,
Cộng Hòa Czech...
Có thể phân biệt
3 loài cá trê ở Nam
bộ qua hình thái bên
ngoài, đặc biệt là
qua phần cuối xương
chẩm.

Phân
biệt cá trê vàng,
trê trắng và trê phi
theo hình thái xương
chẩm.
(1): Trê vàng (2): Trê trắng (3): Trê phi
Cá trê được nuôi
phổ biến hiện nay ở
miền Nam là con lai
F1 giữa cá trê vàng
cái và cá trê phi
đực. Hướng dẫn này
cũng tập trung vào
kỹ thuật sinh sảnh
nhân tạo con lai nói
trên.
Phân biệt
đực cái và chọn cá
bố mẹ thành thục
Ở các loài cá trê
thì con đực thành
thục có gai sinh dục
(lồi hẳn ra ngoài và
có đầu nhọn) nên rất
dễ phân biệt với cá
cái không có điểm
này. Lỗ sinh dục cá
trê cái hình tròn
hơi cương nhưng
không dài và nhọn.

Phân biệt
đực cái ở cá trê: cá
đực bên trái có đoạn
cuối của ống dẫn
tinh hình gai nhọn.
Đặc điểm sinh dục
phụ là những biểu
hiện về hình thái
(có khi là cả tập
tính) bên ngoài
không có liên hệ
trực tiếp với tuyến
sinh dục nhưng chịu
sự điều khiển của
các hormon sinh dục,
nhất là các hormon
sinh dục đực. Những
đặc điểm này biểu
hiện khi cá trưởng
thành, có tuyến sinh
dục phát triển nhưng
nổi bật nhất vào mùa
sinh sản. Trong thời
gian giữa hai mùa
sinh sản sự biểu
hiện của đặc điểm
sinh dục phụ có thể
suy giảm ở những mức
độ khác nhau.
Ở tất cả các loài
cá trê hiện có ở
nước ta, cơ quan
sinh dục ngoài của
con đực và con cái
có sự khác biệt về
hình thái tương đối
rõ. Phần cuối của
ống dẫn niệu sinh
dục của cá đực phía
ngoài thân giống như
gai nhọn. Ở cá cái lỗ
sinh dục hình tròn.
Những cá đực
thành thục tốt có
"gai sinh dục" phát
triển nổi bật, có
tập tính hung hăng.
Mỗi khi bị chạm vào,
những cá đực thường
quẫy mạnh và nhiều
hơn các cá khác.
Cá trê cái thành
thục tốt thường có
bụng to, ỏng, mềm,
phần ngoài lỗ sinh
dục hơi cương, có
thể tiết ra trứng
khi nặn nhẹ ở vùng
bụng gần lỗ sinh
dục.
Trong trường hợp
chưa thành thạo xác
định mức độ thành
thục của cá cái,
người ta có thể lấy
mẫu trứng để khảo
sát. Thông thường có
thể lấy mẫu trứng
bằng dụng cụ gọi là
ống thăm trứng hoặc dùng
bơm tiêm có gắn ống
nhựa mềm luồn qua lỗ
sinh dục để hút
trứng.

Phương pháp lấy
trứng bằng bơm tiêm.
Trứng lấy ra được
đặt trên lam kính
hoặc đĩa petri, nhỏ
vào đấy vài giọt
dung dịch EPA. Dung
dịch này gồm cồn
(ethanol) phormalin
và acid acetic đậm
đặc theo tỷ lệ thể
tích là 6:3:1. Sau
vài phút được ngâm
trong dung dịch EPA,
trứng cá trở nên
trong suốt còn nhân
noãn bào (còn gọi là
túi mầm) thì trắng
đục. Cá cái đã thành
thục tốt phải có
những hạt trứng đạt
kích thước tới hạn,
rời, các mao mạch
trên nang trứng nhỏ
hoặc không còn thấy
được và quan trọng
nhất là có đến trên
60% hạt trứng đã
lệch tâm, tức là
nhân noãn bào không
còn nằm ở giữa nữa.
Gieo tinh
nhân tạo
Gieo tinh nhân
tạo là tạo điều kiện
cho sự gặp nhau của
trứng đã rụng với
tinh trùng trong
điều kiện nhân tạo.
Để gieo tinh nhân
tạo thu được kết quả
tốt, nghĩa là tỷ lệ
thụ tinh cao cần lưu
ý những điều sau
đây:
- Trứng phải được
lấy và gieo tinh
ngay khi bắt đầu có
sự rụng trứng đồng
loạt, vì phẩm chất
trứng rụng cứ kém
dần theo thời gian.
- Trước khi gieo
tinh, trứng và tinh
sào được lấy ra và
đựng trong thau sạch
và khô, khi chạm vào
môi trường nước,
trứng và tinh trùng
được hoạt hóa và mất
sức sống rất nhanh
(1-2 phút).
- Môi trường nước
là cần thiết cho sự
hoạt hóa và thâm
nhập của tinh trùng
vào trứng vì thế
ngay sau khi rắc
tinh trùng lên
trứng, cần thêm nước
đồng thời với sự
khuấy trộn. Sau đó,
tiếp tục khuấy trong
2-3 phút nữa.
Những việc cụ thể
khi gieo tinh như
sau: Khi phát hiện
cá cái bắt đầu rụng
trứng hàng loạt thì
bắt lên, quấn trong
khăn bằng vải bông,
lau khô mình cá đặc
biệt là lỗ sinh dục.
Giữ cá chúc đuôi
xuống thấp, vuốt nhẹ
bụng cá từ phía đầu.
Trứng chảy ra được
hứng trong một cái
chén hoặc tô, chậu
sạch (nếu muốn tránh
vỡ do cá quẫy, có
thể dùng đồ tráng
men hoặc đồ nhựa).
Khi thấy trứng rụng
khó ra hoặc trứng
lẫn máu thì ngưng
vuốt.
Đối với những
loài cá đực có nhiều
tinh như các loài
mè, trắm, chép ...
thì dùng bơm tiêm để
rút tinh dịch. Cách
nặn tinh và lau
tương tự như khi lấy
trứng rụng. Đối với
các loại cá trê,
không thể thu nhận
tinh dịch bằng cách
vuốt bụng, người ta
phải mổ cá đực lấy
tinh sào. Mỗi nhánh
tinh sào của cá đực
trê phi cỡ 0,5kg để
để gieo tinh cho 1
lít trứng. Trong
trường hợp cần giữ
lại cá đực cho đợt
sinh sản sau người
ta chỉ cắt 3/4 nhánh
tinh sào từ mỗi bên
rồi khâu bụng lại.

Giải phẫu
cá trê đực lấy 3/4
tinh sào rồi khâu
lại
Sau khi khâu, cá
được giữ lại trên bể
và được tiêm kháng
sinh 2-3 lần trong
vòng 8-10 ngày. Lúc
vết thương gần như
lành hẳn, cá mới
được thả vào ao để
nuôi vỗ tiếp. 6
tháng nuôi vỗ tiếp
cho phép cá đực từng
được giải phẫu thành
thục trở lại.
Để gieo tinh,
nhánh tinh được nặn
thành từng giọt
trắng đục nhỏ xuống
thau đựng trứng, rồi
nhánh tinh được cắt
nhỏ thành nhiều mảnh
rơi xuống thau. Ngay
sau đó, đối với mỗi
lít trứng mgười ta
thêm chừng 300ml
nước sạch rồi khuấy
trộn trứng với tinh
bằng lông cánh gia
cầm trong khoảng 3-5
phút. Nước sạch tiếp
tục được thêm vào
thau đựng trứng đã
được gieo tinh rồi
được chuyển đến dụng
cụ ấp.
Trứng cá trên
vàng có tính dính
nhưng không dính
chắc như trứng cá
trê phi, cá tra hay
trứng cá chép. Người
ta rắc trứng lên
lưới cứng hoặc cho
dính vào những mảnh
lưới mềm đặt trong
bể chứa nước sạch có
độ sâu 20 - 30cm,
được sục khí. Khi cá
nở xong vỏ trứng vẫn
còn dính vào giá
thể. Người ta nhấc
các mảnh lưới khỏi
bể ấp để giặt sạch,
phơi khô, chuẩn bị
cho lần ấp sau.
KT SX giống một số
loài cá nuôi -
Nguyễn Tường Anh -
NXB Nông nghiệp
Kỹ thuật nuôi cá
trê trong ao đất
I/ KỸ THUẬT
ƯƠNG NUÔI CÁ BỘT LÊN
CÁ GIỐNG TRONG AO
ĐẤT:
1/ Chuẩn bị ao:
Các ao ương có
diện tích từ 500 -
1000m2 rất tiện cho
việc chăm sóc và thu
hoạch. Mực nước
thích hợp trong ao 1
- 1,2m. Đáy ao phải
dốc về phía bọng
thóat nước.
Sau một vụ nuôi
cần phải cải tạo ao
để diệt mầm bệnh,
rút hết nước và diệt
tạp bằng dây thuốc
cá 3 - 5 kg /1000m2
. Sau đó tiến hành
rải vôi bột để diệt
khuẩn liều lượng: 10
- 15 kg/100m2 phơi
đáy ao 3 - 5 ngày,
cho nước vào ao 0,8
- 1 m; nếu ao mới
đào liều lượng vôi
tăng từ 15 - 20
kg/100m2.
Bón phân tạo thức
ăn tự nhiên: Sử dụng
phân chuồng (hữu cơ)
hay phân hóa học
(phân vô cơ) để gây
màu nước.
Nếu bón phân
chuồng: Phân gà liều
lượng từ 4 - 5
kg/100m2, phân heo:
8 - 10 kg/100m2,
phân bò 10 - 15
kg/100m2 >. Các loại
phân này, trước khi
bón xuống ao phải
được ủ cho hoai mục
hay phơi thật khô
nhằm tránh ao bị dơ
và bị nhiễm khuẫn.
Khoảng 1 tuần, nước
sẽ lên màu xanh.
Nếu bón phân hóa
học: Dùng phân lân
NPK liều lượng 3 -
5kg/1000m2, có thể
bón thêm bột cá 1 -
2 kg/1000m2. Khoảng
3 - 4 ngày sau, nước
lên màu xanh và tiến
hành thả cá.
2/ Mật độ thả
ương: Từ 250 - 400
con/m2
3/ Thức ăn và
cách cho ăn:
Sau khi thả cá
được 3 - 4 ngày thì
bắt đầu cho cá ăn
thêm trứng nước hoặc
trùn chỉ. Ngoài ra,
có thể cho cá bột ăn
cá hấp hoặc luộc bóp
nhuyễn, cám nấu chín
... thức ăn được rãi
đều khắp ao, ngày
cho cá ăn 4 - 5 lần.
Theo dõi lượng thức
ăn hằng ngày để điều
chỉnh, tránh thức ăn
dư thừa gây ô nhiễm
nước.
4/ Chăm sóc cá
ương:
- Thường xuyên
theo dõi các hoạt
động bơi lội, bắt
mồi của cá để phát
hiện kịp thời cá
bệnh.
- Trong thành
phần thức ăn nên bổ
sung thêm Vitamin
C: 5 - 10 gam/10 kg
thức ăn và Premix từ
1-2 % lượng thức ăn
cho cá. Cá ương
trong ao rất mau
lớn, chỉ sau 13 - 14
ngày cá đạt tới cở
4-6 cm chiều dài.
II/ KỸ THUẬT
NUÔI CÁ TRÊ THƯƠNG
PHẨM :
1/ Chuẩn bị ao:
Ao nuôi cá trê
nên có diện tích
1000-3000 m2 là tốt
vì sẽ thuận lợi cho
việc cho ăn và chăm
sóc. Các bước chuẩn
bị ao trong nuôi cá
trê thương phẫm
tương tự như trong
ương cá trê bột lên
cá giống.
2/ Chọn giống cá:
Chọn cỡ cá đồng
đều, khoẻ mạnh,
không bị xây xát,
không nhiễm bệnh,
bơi lội nhanh nhẹn,
đánh móng mạnh.
3/ Mật độ thả:
a/ Nuôi đơn : Chỉ
nuôi một loại cá trê
vàng lai.
Cỡ cá (cm) |
Mật độ thả (con/m2) |
Thời gian thu hoạch |
3 - 4 |
60 - 70 |
> 3 tháng |
4 - 6 |
40 - 50 |
> 3 tháng |
5 - 7 |
30 - 40 |
> 3 tháng |
10 -12 |
20 - 30 |
> 2.5 tháng |
b/
Nuôi ghép: Có thể
thả ghép cá trê vàng
lai chung với các
loài cá như rô phi,
chép, trắm cỏ, trôi.
Mật dộ thả cho từng
loại cá như sau:
Loại cá |
Cỡ cá
(cm) |
Mật độ thả
(con/m2) |
Trê lai |
4 - 6 |
10 |
Trôi |
6 - 8 |
5 |
Chép |
6 - 8 |
3 |
Trắm |
6 - 8 |
1 - 2 |
Rô phi |
6 - 8 |
10 |
c/
Nuôi cá đánh tỉa thả
bù: Thường phải
chuẩn bị thêm một ao
nhỏ để ương cá lứa
thả bù, diện tích ao
khoảng 100 – 300m2 .
Mật độ thả các loại
này như sau:
Cỡ cá
(cm) |
Số con
(con/kg) |
Mật độ thả
(con/m2) |
2 - 3 |
3000 - 4000 |
100 - 120 |
3 - 4 |
1800 - 2200 |
80 - 100 |
4/ Thức ăn nuôi
cá và chăm sóc:
- Cá trê vàng lai
ăn tạp, rất háu ăn.
Thức ăn dùng nuôi cá
gồm các loại phụ phế
phẩm đông lạnh như
đầu vỏ tôm, da cá,
đầu lòng cá, ốc,
cua... , cám, thức
ăn gia súc, cám gạo,
bột bắp,...
- Lượng thức ăn
cho cá ăn trong ngày
bằng 10-15% trọng
lượng cá, cho cá ăn
2 lần/ngày.
- Trong quá trình
nuôi nên định kỳ 1
tuần/ 1 lần bổ sung
thêm Vitamin C với
lượng 5 - 10 g/10 kg
thức ăn cho cá trong
ngày.
- Trong tuần đầu
tiên thả cá thì thức
ăn cho cá nên được
nấu chín.
- Khoảng 5-7 ngày
thay nước 1 lần,
thay 30% nước trong
ao.
- Bón vôi bột
(CaCO3) 1 - 2
kg/100m2 định kỳ 15
ngày/lần.
5/ Thu hoạch:
Sau 2-3 tháng
nuôi, cá đạt kích cỡ
150-250g/con có thể
tiến hành thu tỉa
những cá lớn.
Khoảng 15 ngày
sau, có thể tiến
hành thu đợt 2. Cứ
tiếp tục như vậy khi
thu hết cá trong ao.
Trung tâm Khuyên nông An Giang
Kỹ thuật nuôi và
phòng trị bệnh cho
cá Trê lai
Cá trê lai có khả
năng thích hợp được
với nhiều loại hình
nuôi như: ao tù,
mương rãnh và có thể
nuôi ở nơi hàm lượng
oxy thấp... Nuôi cá
trê lai thường không
quá cầu kỳ về kỹ
thuật nhưng hiệu quả
vẫn rất cao.
Kỹ thuật nuôi
Ao nuôi: Có thể
nuôi ở tất cả các
loại ao thường nuôi
cá để nuôi cá trê
lai, thậm chí cả ở
ao tù, bẩn, có điều
kiện nuôi đơn để
tiện chăm sóc. Diện
tích ao từ vài chục
đến vài trăm m2. Mực
nước 0,8-1,2m. Đáy
trơ ít bùn, bờ vững
chắc, có điều kiện
nên kè xung quanh,
gần nguồn nước.
Mật độ thả giống:
Cỡ cá giống 3-5cm,
mật độ thả 15-25
con/m2 ao nhỏ. Cỡ cá
giống 4-6cm, mật độ
thả 15-20con/m2 ao
vừa. Cỡ cá giống
5-7cm, mật độ thả
10-15con/m2 ao lớn,
có điều kiện tẩy dọn
sạch.
Thức ăn: Lượng
đạm cần cho tháng
thứ nhất từ 20-30%,
tháng thứ 2 từ
10-20%, tháng thứ 3
từ 10-15% tổng số
thức ăn.
Dùng các loại
thực phẩm chất lượng
kém như cám gạo,
ngô, bã rượu, bột cá
nhạt, cá tạp, tôm,
cua, ốc nhái, giun
đất, phân gia súc,
gia cầm... Lượng
thức ăn thường 4-6%
khối lượng cá/ngày
theo thức ăn khô,
8-10% theo thức ăn
ướt.
Chăm sóc: Nước
quá nhiễm bẩn (có
mùi thối) nên thay
nước. Cần duy trì
nước sâu, thả bèo
tây, che gió để
phòng rét, chống
nóng. Đặc biệt chú ý
vào mùa mưa cá dễ đi
và chống bắt trộm.
Thu hoạch: Thả
ống, đánh lưới, thu
tỉa bằng câu, tát
cạn bắt sạch. Trong
điều kiện nuôi dưỡng
tốt, nuôi 3-4 tháng
nặng 200-300g/con,
5-6 tháng được
400-500g/con.
Phòng trị bệnh
cho cá trê
Bệnh nhầy da: Khi
nhiễm bệnh cá bột
bơi thẳng đứng trên
mặt nước, vây bị ăn
mòn, râu quăn. Da có
đám chất nhầy. Bệnh
này do ký sinh
trùng. Điều trị bằng
sunphat đồng 0,3g/m3
tắm trong 2-3 ngày.
Dùng Fomalin 25g/m3
tắm trong 2 ngày.
Bệnh trắng da
khoang thân: Khi mắc
bệnh cá bột thường
nổi trên mặt nước,
da bị loét. Thân có
những đám vệt trắng.
Vây cụt. Bệnh do vi
khuẩn Flexiloacter
columnanis gây ra.
Điều trị bằng
Chloroxit,
Tetracilin,
Penixilin tắm cho cá
trong 30 phút. Liều
lượng một viên
250mg/10 lít nước.
Bệnh trùng quả
dưa: Thân cá gốc vây
ngực có chấm nhỏ như
hạt tấm màu trắng.
Các chất này vỡ ra
vào trong nước, tạo
nên các vết loét ở
chỗ vỡ. Điều trị
bằng cách tắm
Vernalachite hay
Greenmetil 0,1g/m3
trong 3-4 ngày.
Formalin 25g/m3
trong 8 ngày.
Bệnh sán lá 16
móc: Cá có màu đen,
đầu to đuôi nhỏ,
mang bị rựng, cá bơi
chậm chạp dựng đứng
thành dụng cụ ương.
Bệnh do vi khuẩn
Dactylogyrus gây
nên. Điều trị bằng
cách tắm trong nước
4muối 3% trong 3-5
phút. Phun trực tiếp
Dipterex
0,25-0,5g/m3 trong
1-2 ngày.
Nuôi cá trê lai
Chuẩn bị ao:
Vét bùn đáy ao, lấp
các lỗ mọi, đắp bờ
bao, phơi đáy ao 2 -
3 ngày, bón vôi từ
30 - 50kg/1000m2 để diệt tạp và điều
chỉnh độ pH của nước
ao. Bón lót phân
chuồng với lượng 100
- 150kg phân/1.000m2.
Lấy nước qua lưới
lọc vào ao để ngăn
ngừa cá dữ, địch hại
theo vào trong ao.
Sau 5 - 7 ngày có
thể thả cá vào nuôi
được. Mực nước lúc
ban đầu lấy vào ao
khoảng 0,8m - 1m, sẽ
được tăng dần lên
sau 1 tháng nuôi đến
khi đạt độ sâu 1,2 -
1,5m. Nếu là ao mới
đào thì bón với liều
lượng 70
-100kg/1.000kgm2 để giữ cho độ pH của
nước từ 6 - 7,5 là
tốt nhất.
2. Chọn giống cá:
Chọn cỡ cá đồng đều,
khoẻ mạnh, không bị
xây xát, không bị
bệnh, bơi lội nhanh
nhẹn và đã qua kiểm
dịch giống thuỷ sản.
3. Mật độ:
Mật độ: 20 - 40 con
/ m2, mật
độ còn tuỳ thuộc vào
khả năng đầu tư của
hộ.
4. Thức ăn: Thức
ăn viên công nghiệp
hoặc thức ăn tự chế
biến
- Thức ăn viên công
nghiệp đủ thành phần
dinh dưỡng và cho ăn
theo hướng dẫn của
nhà sản xuất.
- Thức ăn tự chế
biến:
Cá trê lai là loài
ăn tạp, rất háu ăn,
thức ăn thường là
các phụ phế phẩm của
các nhà máy đông
lạnh và phụ phẩm
nông nghiệp. Ngoài
ra, để giúp cá tăng
trưởng nhanh, ít
bệnh trong quá trình
nuôi cần bổ sung
premix, vitamin C
một tuần một lần với
lượng 1-2% của tổng
thức ăn cho ăn hằng
ngày.
Trong 2 tuần đầu mới
thả cá còn nhỏ nên
bằm thức ăn: Đầu
lòng cá, ruột gà
vịt, và tất cả các
phụ phẩm nhà máy
đông lạnh,....
Bắp xay nên ngâm
nước cho nở khoảng
15-20 phút trước khi
nấu. Sau khi nấu
chín trộn với cám
khô theo tỷ lệ 1/1
rồi trộn tiếp với
con ruốc hoặc cá
phân.
Nếu cho ăn thức ăn
tươi (đầu tôm, lòng
ruột cá...) lượng
thức ăn cho cá ăn
trong một ngày bằng
10-15% tổng trọng
lượng cá dự đoán
dưới ao. Nếu dùng
thức ăn tinh như
cám, bắp,... lượng
thức ăn cho cá ăn
trong một ngày bằng
5-7% trọng lượng cá
dự đoán.
* Cho ăn: Nên cho cá
ăn những vị trí cố
định trong ao,
thường xuyên theo
dõi điều chỉnh thức
ăn cho phù hợp.
Tránh trường hợp cho
ăn quá dư thừa làm
thối bẩn nước ao tạo
điều kiện cho bệnh
cá phát triển.
5. Chăm sóc - Quản
lý:
- Thường xuyên kiểm
tra bờ bao, cống
bọng và tốc độ lớn
của cá.
- Theo dõi hoạt động
của cá, màu nước
trong ao. Sau một
tháng đầu cá tương
đối lớn có thể định
kỳ thay nước cho ao,
cứ 5-7 ngày một lần
thay khoảng 30%
lượng nước có trong
ao. Sử dụng thức ăn
tươi thì cần chú ý
thay nước nhiều hơn
tốt nhất thay nước
theo thuỷ triều.
6. Thu hoạch:
Sau 4 tháng thả nuôi
cá sẽ đạt kích cỡ
thương phẩm (150 -
250g/con), tiến hành
thu hoạch đợt I xong
sẽ tiếp tục cho ăn
tích cực, khoảng
10-15 ngày sau sẽ
thu hoạch đợt II.
Thường ở đợt này
lượng cá thu hoạch
được sẽ nhiều hơn và
tương đối đồng đều
về kích cỡ so với
đợt I. Nếu trong ao
vẫn còn một số cá
chưa đạt qui cỡ thì
sẽ nuôi tiếp tục hai
tuần nữa thu hoạch
toàn bộ.
Văn Thị Nhi - Chi cục
BVNLTS Vĩnh Long
Nhân giống và nuôi cá trê
Tài liệu tham khảo Nhân giống và nuôi cá trê
Nhân giống và nuôi cá trê
Ở Nam bộ hiện nay có tất cả 3 loài cá trê. Hai loài phân bố tự nhiên là cá trê trắng Clarias
batrachus và cá trê vàng Clarias macrocephalus. Loài thứ ba là cá trê phi Clarias...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.