Kỹ thuật nuôi tôm chân trắng Nam Mỹ
Thả giống:
Tiến hành chọn lựa giống vào buổi sáng hoặc buổi tối, tránh
thả giống trong điều kiện thời tiết xấu. Mật độ thả
giống khoảng 30.000 - 40.000 con/mẫu, kích cỡ tôm giống từ 0,5 đến
1 cm.
Nuôi dưỡng:
Mỗi ngày tiến hành cho ăn ba lần (sáng, chiều và tối), mới
đầu chỉ cho ăn một ít lòng đỏ trứng hoặc các loại cá hương.
Lòng đỏ trứng và cá hương có thể phân huỷ thành phân hữu cơ,
vì thế, trước khi cho ăn, phải xử lý tiêu độc, lòng đỏ
trứng đánh nhuyễn, thêm nước, vảy đều xuống ao. Lượng
thức ăn được điều chỉnh theo mật độ tôm nuôi, trung bình 30
- 50 lòng đỏ/lần, số lượng này sẽ tăng theo sự tăng trưởng
của tôm.
Cho tôm ăn nhiều vào buổi sáng và buổi tối, ban ngày cho ăn
ít. Rắc nhiều thức ăn ở bốn phía (sát với thành ao), ở
giữa rắc ít hơn, nơi tôm tập trung đông rắc nhiều, nơi tôm
tập trung ít rắc ít. Lượng thức ăn còn phụ thuộc vào điều
kiện thời tiết, nhiệt độ của nước, nhu cầu thực tế của
tôm.
Xác định lượng thức ăn phù hợp từng giai đoạn phát
triển của tôm là rất cần thiết, vì khi tôm bị đói sẽ tăng
trưởng chậm, thậm chí ăn thịt lẫn nhau, trái lại, khi thức ăn
quá nhiều, tôm không ăn hết, gây nên sự ô nhiễm, tạo điều
kiện cho vi khuẩn gây bệnh phát triển.
Có một thiết bị chuyên dụng, dùng để kiểm tra tình hình
sinh trưởng của tôm, xác định lượng thức ăn cung cấp cho tôm
đủ, thiếu hay thừa, đó là lưới tơ. Nếu không có thiết bị
này, người ta có thể kiểm tra bằng cách dựa vào lượng thức
ăn có trong ruột tôm.
Bổ sung thường xuyên các chất : vitamin C, vitamin E, bột côn
bố, tỏi giã, thuốc kích thích tăng trưởng ... để tăng cường
thể chất và sức đề kháng của tôm, từ đó, hạn chế được
sự phát sinh dịch bệnh.
Quản lý ao:
Công tác quản lý được thực hiện liên tục trong suốt quá
trình nuôi dưỡng. Ðể thu được hiệu quả nuôi trồng cao,
phải thường xuyên tiến hành kiểm tra ao.
1. Kiểm tra ao:
Mỗi ngày hai lần, vào buổi sáng và buổi tối.
Ban đêm, nên tiến hành kiểm tra thêm một lần nữa, bởi vì khi
đó tôm có xu hướng bơi sát thành ao, đây là thời điểm thích
hợp cho việc phát hiện những bất thường ở tôm, từ đó tìm
ra những phương pháp xử lý kịp thời.
Kiểm tra ao bao gồm: quan sát màu sắc của nước, đánh giá độ
trong, xem xét tốc độ tăng trưởng của tôm ... để xác định lượng
thức ăn phù hợp. Ðịnh kỳ kiểm tra nhiệt độ, kiểm tra lượng
dưỡng khí hoà tan, lượng nitơ-amôniăc, lượng sun-phua-hiđrô, độ
mặn, độ pH,
2. Duy trì chất nước ổn định:
Trong quá trình nuôi tôm,
chất nước tốt nhất có màu nâu trà, thứ đến là màu vàng
lục, độ nhìn thấu khoảng 40 - 70 cm. Màu sắc của nước phản
ánh trung thực chất lượng nước trong ao, phải chú ý điều
tiết sắc nước bằng cách chủ động tăng/giảm nồng độ phân
bón, định kỳ thả nấm tươi, bột đá đô-lô-mit, thuốc kích
thích tảo sinh trưởng, bã chè ..., định kỳ dùng thuốc tiêu độc
(ClO2) làm giảm bớt lượng chất ô nhiễm ở đáy ao, giúp đề
phòng sự phát sinh bệnh tôm.
Khi thời tiết chuyển lạnh, phải tăng cường bơm nước vào
ao để tránh rét cho tôm. Khi nước trong ao nuôi đạt được mọi
yêu cầu kỹ thuật, tuyệt đối tránh thay nước, cố gắng duy trì
tính ổn định và đảm bảo môi trường sinh thái cho tôm nuôi.
3. Các biện pháp xử lý chất nước
a. Ðịnh kỳ dùng vôi tôi:
Lượng cần dùng phụ thuộc vào chất nước và mức độ ô
nhiễm ở đáy ao, thông thường sử dụng khoảng 30 - 50 kg/mẫu. Vôi
tôi có tác dụng làm tan một số chất hữu cơ trong nước,
khiến đáy ao bớt ô nhiễm, ngoài ra, khi sử dụng vôi tôi, lượng
dưỡng khí trong ao tăng lên.
b. Ðịnh kỳ sử dụng nấm tươi:
Tốt nhất nên thực hiện ngay sau khi sử dụng vôi tôi, khiến
nấm tươi phát triển tốt hơn, phân giải các chất ô nhiễm, ngăn
cản sự sinh sôi của các vi khuẩn có hại, lượng trung bình là
2 - 4 kg/ mẫu x mét.
Lưu ý: 10 đến 15 ngày sau khi sử dụng nấm tươi mới được
dùng thuốc tiêu độc.
c. Ðịnh kỳ dùng vôi sống:
Lượng sử dụng thông thường là 10 kg/mẫu x mét. Ngoài việc
sử dụng định kỳ, có thể dùng cả những hôm trời mưa để
điều tiết sắc nước và độ pH.
d. Ðịnh kỳ sử dụng thuốc tiêu độc:
Thuốc tiêu độc hàng đầu hiện nay là ClO2, vì thuốc ở
dạng bột màu trắng, nổi trên mặt nước nên trước khi sử
dụng, người ta phải kích hoạt thuốc. Bên cạnh ưu điểm điều
tiết chất nước, giúp ngăn ngừa dịch bệnh, thuốc tiêu độc có
một số nhược điểm là làm giảm thể lực của tôm, tiêu
diệt những sinh vật phù du hữu ích, phá hỏng môi trường sinh
thái của tôm nuôi. Vì vậy, phải tuyệt đối tuân theo sự chỉ
dẫn về liều lượng.
Phòng trừ dịch bệnh:
Mặc dù đã làm tốt các công tác thả giống, nuôi dưỡng,
kiểm tra ao nuôi hằng ngày, nhưng nhất thiết phải chú trọng công
tác phòng trừ dịch bệnh, nhất là khoảng thời gian 30 - 60 ngày
sau khi thả giống - là giai đoạn tôm nuôi rất dễ mắc bệnh
Trong quá trình nuôi, phải triệt để áp dụng các biện pháp
dự phòng, như trộn thuốc vào thức ăn, sử dụng thuốc tiêu độc,
tiến hành điều tiết môi trường sinh thái cho phù hợp với
từng thời kỳ sinh trưởng của tôm.
Ðịnh kỳ tiến hành cho tôm ăn thức ăn đã tẩm thuốc hoặc
chỉ tiến hành khi thấy những phát sinh bất lợi ở tôm, hay
chất nước trong ao không tốt Ngoài tác dụng giúp ngăn ngừa
dịch bệnh phát sinh, loại thức ăn đã tẩm thuốc này còn có
thể tăng cường thể chất ở tôm. Nhưng không vì thế mà lạm
dụng thuốc, đồng thời tránh dùng thường xuyên một loại
thuốc.
Tỏi giã cũng là một dược liệu không thể thiếu trong nghề
nuôi tôm vì nó có khả năng diệt khuẩn, trị bệnh đường
ruột, kích thích tôm ăn.
Một khi dịch bệnh phát sinh, phải tăng cường thay nước để
tiêu độc, sau đó, dùng vôi tôi để làm giảm lượng nitơ-amôniăc,
dùng nấm tươi tạo nên môi trường sinh thái thích hợp, dưới
đây là một số biện pháp cụ thể khi gặp phải tình trạng
bất thường ở tôm:
1. Hiện tượng tôm nổi - Các nguyên nhân và biện pháp xử lý
a. Do thiếu Ô xy: Thường phát sinh vào ban đêm hoặc sáng sớm,
cách giải quyết rất đơn giản: bật máy sục khí.
Trường hợp tôm nổi quá nhiều, phải kết hợp sử dụng
thuốc tạo khí. Nếu tôm nổi vì thiếu ôxy thì ngay khi áp dụng
mấy cách thức trên, tôm sẽ không nổi nữa.
b. Do thiếu thức ăn: Trong trường hợp này, tôm sẽ quây tụ
thành đàn, có thể quan sát ruột tôm và tiến hành cho ăn kịp
thời.
c. Do trúng độc: Tôm cũng di chuyển thành đàn trên mặt ao và
tầng nước giữa. Chất ô nhiễm dưới đáy ao quá nhiều tạo nên
khí nitơ-amôniăc và sun-phua-hiđrô, lúc này, ngoài việc mở máy
sục khí để tăng lượng dưỡng khí hoà tan, còn phải tích cực
thay nước, sử dụng vôi tôi và nấm tươi.
Ðiều đáng chú ý là phải ngừng cho tôm ăn, vì khi trúng độc,
tôm thường có xu hướng bỏ ăn, nếu cứ tiếp tục cung cấp
thức ăn sẽ tạo nên sự ô nhiễm mới. Chỉ khi tôm đã hồi
phục hoàn toàn mới tiến hành cho ăn.
2. Bệnh nhiễm khuẩn ở tôm giống:
Biểu hiện thường thấy là
đứt râu, rụng chân, thối mắt, đen mang, rữa mang, gan sưng đỏ,
tuy mức độ nguy hại không cao nhưng nếu xử lý không tốt có
thể dẫn đến hiện tượng chết hàng loạt, đối với bệnh
nhiễm khuẩn ở tôm giống có thể thực hiện các biện pháp tiêu
độc, thay nước, trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn Kết quả
rất khả quan.
3. Bệnh nhiễm cầu trùng:
Thường phát sinh khi nhiệt độ môi
trường tăng, nước mặn hơn khiến tôm bị rụng đầu, gan sưng
tấy - có lúc màu đỏ, có lúc chuyển màu trắng, vỏ tôm mềm. Vì
tính chất lây lan nhanh nên hay chuyển thành dịch bệnh.
Biện pháp xử lý: Tích cực thay nước trong nhiều ngày, mỗi
ngày thay làm nhiều lần (chú ý: lượng nước thay của mỗi lần
phải ít, tránh kích thích tôm lột vỏ là lúc tôm rất dễ
nhiễm bệnh); Cách li những ao phát sinh bệnh; Cho tôm ăn thức ăn
đã trộn axit flo-hiđric.
Tôm nhiễm bệnh cầu trùng rất dễ mắc thêm các bệnh khác, vì
thế, phải phòng sự phát sinh của các "bệnh cơ hội".
4. Bệnh đỏ thân:
Tôm mắc bệnh có thân đỏ như màu hoa
hồng. Bệnh phát sinh khi nhiệt độ giảm thấp (trái với tác nhân
gây bệnh nhiễm cầu trùng), diễn biến của bệnh thường chậm,
hiếm khi tôm chết hàng loạt, biện pháp phòng ngừa là sử dụng
tỏi giã. Khi tôm mắc bệnh, ta trộn phu-ran vào thức ăn.
TTKHCN TS - 8/2003 Theo Thông tin KHKT Việt Hoa, 2002
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.