Nuôi tôm trên cát quy mô lớn - một số cảnh báo về môi trường
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Nuôi tôm trên cát quy mô lớn - một số cảnh báo về môi trường
Nuôi tôm trên cát quy mô lớn - một số cảnh báo về môi trường
Trong những năm gần đây, phong trào nuôi tôm ở nước ta, đặc
biệt là nuôi tôm sú đã có những bước phát triển đáng kể,
góp phần nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo, cải thiện sinh
kế cho cộng đồng nhân dân ven biển và bổ sung cho thị phần
xuất khẩu của đất nước. Vì vậy, tăng cường và mở rộng
nuôi trồng thuỷ sản đang được xem là giải pháp lựa chọn
nhằm giảm bớt sức ép đến môi trường và nguồn lợi thuỷ
sản vùng biển ven bờ.
Tại các tỉnh ven biển miền Trung, hầu hết diện tích các
vùng đất ngập nước và mặt nước có điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển nuôi tôm ao đất ở hình thức thông thường
đều đã được khai thác. Do vậy, nuôi tôm trên cát đã được
xem là một giải pháp cho vấn đề thiếu đất và đã được
thử nghiệm ở Ninh Thuận cũng như một số tỉnh miền Trung, bước
đầu cho hiệu quả kinh tế rõ rệt. Những thành công ban đầu
của việc nuôi tôm trên cát có thể tạo ra một bước ngoặt
mới trong quá trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản tại các
tỉnh miền Trung nơi còn nghèo và có diện tích đất cát ven biển
lớn.
Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích kinh tế xã hội trước mắt, việc
nuôi tôm trên cát, đặc biệt là ở quy mô lớn, vẫn còn tiềm
ẩn một số vấn đề môi trường. Nếu không được cảnh báo
và có giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu thì sẽ gây ra các tác
động tiêu cực trước mắt cũng như lâu dài không chỉ đến môi
trường xung quanh mà còn đến chính hiệu quả nuôi trồng. Các
vấn đề chủ yếu cần được tính đến là :
Cạn kiệt nguồn nước ngọt và nước ngầm
Sự khác biệt lớn giữa nuôi tôm trên cát và nuôi tôm thông thường
là ở chỗ nuôi tôm trên cát cần rất nhiều nước, cả nước
biển lẫn nước ngọt. Các khu vực nuôi tôm trên cát đều nằm
sát biển, có thể bơm trực tiếp từ biển vào. Tuy nhiên vấn đề
khó khăn nhất lại là nguồn nước ngọt. Các khu vực nuôi tôm
trên cát thường xây dựng ở các bãi ngang ven biển, nơi mà
nguồn nước ngọt rất hạn chế so với các nơi khác. Nhiều nơi
nước ngọt thậm chí còn không đủ cung cấp cho sản xuất nông
nghiệp. Mặt khác mùa vụ nuôi chính lại rơi vào mùa khô-thời điểm
khan hiếm nước ngọt trong năm. Nếu việc khai thác nước ngầm
phục vụ hoạt động nuôi tôm trên cát vượt quá giới hạn cho
phép có thể dẫn tới sụt lở địa tầng, cạn kiệt nguồn nước
ngầm ngọt, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước sinh hoạt
của nhân dân và cho sản xuất nông nghiệp tại các khu vực lân
cận.
Ô nhiễm biển và nước ngầm do chất thải từ nuôi trồng
Vấn đề chất thải từ nuôi tôm, dù bất kỳ ở đâu, đều
là một vấn đề lớn cần quan tâm. Trong các mô hình nuôi tôm
trên cát hiện nay, việc xả nước thải chưa qua xử lý còn tương
đối tuỳ tiện, đa số được thải trực tiếp ra biển. Nếu ở
quy mô nhỏ thì trong một vài năm đầu có thể chưa gây ra ảnh hưởng
đáng kể. Nhưng nếu diện tích nuôi lớn và việc phát thải
diễn ra trong thời gian dài thì nó có thể gây ô nhiễm môi trường
nước biển ven bờ, gây phù dưỡng, ảnh hưởng đến quá trình
sinh trưởng và phát triển của nguồn lợi hải sản tự nhiên.
Ngoài việc xả nước thải ra biển, nhiều hộ nuôi còn thải
trực tiếp nước thải và bùn ao ngay trên khu vực đất cát cạnh
bờ đầm nuôi, gây ô nhiễm và mặn hoá nguồn nước ngầm ngọt.
Dịch bệnh có thể lây lan qua các đầm nuôi khác do sử dụng nước
ngầm đã bị ảnh hưởng bởi nước thải xuống từ các đầm
nuôi bị nhiễm bệnh. Ðem mầm bệnh từ đầm này qua đầm khác
tạo cơ hội bùng phát dịch bệnh tràn lan, ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả sản xuất.
Mặn hoá đất và nước ngầm
Vùng cát thuộc loại cố kết địa tầng yếu, nên việc lạm
dụng quá mức nước ngầm ngọt cho nuôi tôm trên cát như hiện
nay sẽ dẫn đến tình trạng sụt lún địa tầng khu vực, nước
ngầm bị cạn kiệt gây mất cân bằng áp lực tạo điều kiện
cho nước mặn xâm nhập từ biển vào, gây mặn hoá nước ngầm
ngọt. Thiếu nước ngầm, độ ẩm của đất giảm, nước bị
nhiễm mặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển cây
nông nghiệp ở khu vực lân cận.
Mặt khác đất cát dễ thẩm thấu, nếu nuôi tôm ở quy mô
lớn, việc thất thoát, thẩm thấu nước trong quá trình bơm nước
từ biển vào, thải nước ra cũng như trong quá trình nuôi sẽ làm
một lượng lớn nước mặn ngấm vào trong lòng đất, gây mặn
hoá đất và nguồn nước ngầm ngọt, thậm chí ở tầng sâu hơn.
Thu hẹp diện tích rừng phòng hộ , làm tăng hoạt động cát
bay và bão cát
Rừng phòng hộ (phi lao) đối với vùng bờ cát có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng, là giải pháp hữu hiệu chống cát bay, cát chảy
và bão cát, tạo cảnh quan đẹp cho vùng bờ cát ở các xứ nóng.
Những cánh rừng như vậy đang bị ảnh hưởng và chết do nguồn
nước ngầm nuôi cây đã bị hút cạn kiệt phục vụ cho nuôi
tôm. Tại Ninh Thuận, thực tế đã có hiện tượng cây phi lao ven
biển chết do thiếu nước, hậu quả của việc khai thác nước
ngầm quá giới hạn.
Quá trình làm ao, đắp bờ và mở đường đi lại đều làm cho
lớp cát đã được ổn định tương đối bởi cây hoang dại bị
đào xới khiến mức độ gắn kết của cát yếu đi, tạo điều
kiện thuận lợi cho hiện tượng cát bay và bão cát. Nếu thiếu
thận trọng trong quá trình chọn địa điểm xây dựng ao nuôi,
việc phát triển ao nuôi không đi đôi với bảo vệ rừng phòng
hộ hay trồng rừng che chắn, đặc biệt là các khu vực nhiều
gió cát, dễ dẫn đến hiện tượng đầm nuôi bị vùi lấp trong
quá trình sản xuất.
Hiện tại, diện tích nuôi trên cát còn tương đối nhỏ lẻ,
hoạt động nuôi mới khởi đầu, các hậu quả môi trường có
thể chưa thực sự đáng kể. Nếu việc quy hoạch và quản lý
không tốt, khi việc nuôi tôm trên cát diễn ra ở quy mô lớn,
trong thời gian dài sẽ nảy sinh những vấn đề môi trường
nghiêm trọng, trước mắt là ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả nuôi trồng và sau đó có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ
cộng đồng và các hoạt động kinh tế khác ở xung quanh. Do vậy,
cần có các giải pháp trước mắt là :
- Cần ưu tiên công tác quy hoạch và thiết kế mô hình ngư
trại (vùng nuôi tôm) trên cát hợp lý : hiệu quả kinh tế, an sinh
xã hội và an toàn môi trường.
- Các ngư trại lớn bắt buộc phải xây dựng hệ thống trữ nước
ngọt kiểu hồ chứa, tận dụng nước mưa, nước chảy bề mặt
và sông suối dẫn về.
- Xúc tiến việc đánh giá tác động môi trường đối với
các dự án xây dựng vùng nuôi tôm trên cát. Cần xây dựng hệ
thống xử lý môi trường có hiệu quả, tránh tình trạng thải
chất thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường đất, nước xung
quanh.
- Thực hiện chế độ nuôi tôm ít thay nước nhằm hạn chế
dịch bệnh lây lan và xây dựng mô hình lâm ngư kết hợp trên
vùng cát.
- Tiến hành kiểm soát môi trường nuôi tôm trên cát dựa trên
các tiêu chí môi trường và kết quả quan trắc-cảnh báo môi trường
và dịch bệnh dựa vào cộng đồng, kết hợp với việc đánh
giá các chỉ số ngư trại bền vững để có hướng dẫn phòng
ngừa các rủi ro và tác động tiêu cực môi trường.
Ðể đảm bảo cho phát triển nuôi tôm trên cát một cách bền
vững, không nên chỉ làm kinh tế cực đoan , phải nhìn nhận một
cách toàn diện, cân đối, hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế,
xã hội và môi trường nhằm giảm thiểu mâu thuẫn giữa lợi
ích cộng đồng dân địa phương và các nhà đầu tư và kinh
doanh.
Tổng hợp từ báo cáo tại Hội thảo Môi trường NTTS ven biển
VN, TTKHCN TS - 7/2003
Nuôi tôm trên cát quy mô lớn - một số cảnh báo về môi trường
trong những năm gần đây, phong trào nuôi tôm ở nước ta, đặc biệt là nuôi tôm sú đã có những bước phát triển đáng kể, góp phần nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế cho cộng đồng nhân dân ven biển và bổ sung cho thị phần xuất khẩu của đất nước.
Nuôi tôm trên cát...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.