Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá mú
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá mú
Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá mú
Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh
tế cao (4-68 USD/Kg). Chúng được nuôi ở nhiều nơi như:
Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kông), Nhật Bản, Malaysia,
Singapore, Thái Lan, Philippines, Brunei...
Nghề nuôi cq mú ở châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng
nguồn giống hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nghiên cứu sản
xuất giống nhân tạo cá mú đã bắt đầu ở Nhật Bản
vào thập niên 60, các nước Đông Nam á vào cuối thập
niên 70. Đến nay, hơn 10 loài cá mú đã được nuôi và
sản xuất giống nhân tạo như cá mú đen chấm đen (Epinephelus
malabaricus), cá mú đen chấm nâu (E. coioides), cá mú
ruồi (E. tauvina), cá mú đỏ (E. akaara), cá màu
đỏ (E. awoara), cá mú cọp (E. fuscoguttatus), cá
mú nghệ (E. lancelatus), E. aeneus, E. microdon, E.
polyphekadion, E. tukula, cá mú chuột (Cromileptes altivelis)...
Đặc điểm sinh học
Trên thế giới, cá mú nằm trong họ phụ Epinephelinae có 159 loài thuộc 15 giống, phân bố ở vùng nhiệt đới
và cận nhiệt đới nơi có rạn san hô, đá ngầm, ở vùng
biển nước ấm. Mùa hè sống ở vên bờ, mùa đông di cư
ra vùng xa bờ. Chúng có tập tíh dinh dưỡng ăn thịt, thức
ăn gồm cá con, mực, giáp xác, thường ăn thịt lẫn nhau
ở giai đoạn cá con. Ở Việt Nam, chúng phân bố từ vịnh
Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, tập trung nhiều ở ven biển
miền Trung.
Tuổi thành thục lần đầu của cá mú lúc 3 tuổi. Trọng lượng
thành thục lần đầu thay đổi tùy theo, kích thước nhỏ
nhất là cá mú chuột (1kg), lớn nhất là cá mú nghệ (50-60kg). Mùa vụ sinh sản thay đổi theo từng loài và vùng
địa lý, ở Đài Loan mùa sinh sản từ tháng 3 đến tháng
10, ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10, ở Philippine và
các tỉnh Nam Bộ cá có thể đẻ quanh năm.
Cá mú là loài cá tập tính chuyển giới tính, thông thường
lúc còn nhỏ là cá cái khi lớn chuyển thành cá đực.
Thời điểm chuyển giới tính thay đổi theo từng loài,
loài cá mú đỏ (E. akaara) chuyển giới tính lúc có chiều
dài 27-30cm, với trọng lượng 0,7-1kg, loài cá mú ruồi (E.
tauvina) lúc có chiều dài 65-75cm, loài cá mú chuột lúc có
trọng lượng trên 3kg.
Hệ số thành thục và sức sinh sản khác nhau ở các loài:
ở cá mú đen chấm đen có hệ số thành thục cao nhất vào
tháng 1 (5,2± 2,7%) và thấp nhất vào tháng 3. Sức sinh sản
cao nhất vào tháng 12 là 3,18 ± 0,61 x 106 và thấp
nhất vào tháng 8 là 0,13 x 106 trứng. Sức sinh sản của
cá mú đỏ (E. akaara): 150.000 - 500.000 trứng, cá mú đen
chấm nâu: 600.000 -1.900.000 trứng/kg.
Tốc độ tăng trưởng khác nhau giữa các loài: tốc độ tăng
trưởng của một vài loài cá mú nuôi ở nước ta sau 1 năm:
cá mú son (cephalopholis miniata) là 0,3-0,4kg, cá mú đen chấm
đen: 0,8kg, cá mú đen chấm nâu 0,8kg, cá mú ruồi: 1-1,2kg,
cá mú nghệ: 3-4kg.
Sinh sản nhân tạo
Thu thập và thuần dưỡng cá bố mẹ:
Cá bố mẹ được đánh bắt ngoài tự nhiên hoặc thu gôm
từ ao, lồng nuôi thịt. Cá bố mẹ từ ao hay lồng nuôi
dễ thích nghi với điều kiện nuôi nhốt. Không sử dụng
cá đánh bắt bằng chất cyanide, nên dùng những cá bắt
bằng bẫy tre để làm cá bố mẹ.
Cá bắt được nên vận chuyển ngay đến trại giống hay
lồng nuôi. Không cần gây mê cá nếu vận chuyển trong các
bồn chứa hay trong các dụng cụ có máy sục khí. Khi đến
trại giống cá được xử lý bằng formol 25ppm và kháng sinh
Oxytetracyline với nồng độ 2mg/l tắm cá trong 24 giờ, hoặc
tiên 20mg/kg cá phòngchống nhiễm do vi khuẩn. Bể nuôi vỗ
hình tròn có thể tích 100-150 m3. Sử dụng nguồn nước biển sạch có độ mặn
30-33 ‰ , nhiệt độ nước 28 - 30 độ C. Trước
khi cấp vào bể nuôi, nên được lọc qua cát.
Mật độ nuôi vỗ 1kg cá / m3. Tỉ lệ đực cái từ 1/1 đến 1/2. Chế độ thay nước
từ 50-100% mỗi ngày.
Nuôi vỗ:
Nuôi vỗ cá bố mẹ là khâu quan trọng, kỹ thuật nuôi
hợp lý ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ thành thục, tỷ lệ
cá đẻ, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, và tỷ lệ sống
của cá con. Sự thành thục có quan hệ chặt chẽ với chế
độ dinh dưỡng, không chỉ phụ thuộc vào khối lượng
thức ăn mà còn phụ thuộc vào chất lượng thức ăn.
Thức ăn nuôi vỗ là cá nục, cá bạc má, cá thu... khẩu
phẩn 1-2% thể trọng/ngày. Thức ăn có hàm lượng prôtêin
trên 40%, lipid 6-10%, bổ sung thêm vitamin E, C và dầu cá.
Việc bổ sung nguồn chất béo giàu các acid béo không no
(Hufa) có ảnh hưởng đến sự thành thục cá bố mẹ.
Kính thích thành thục
Tuổi thành thục của cá mú là 3-5 năm, cá rất dễ thành
thục trong điều kiện nuôi nhốt. Ngoài ra có thể áp dụng
kỹ thuật cấy hỗn hợp Cholestrerol, LHRH và 17 - a
Methyltestosterone kích thích cá thành thục sớm và đồng
loạt.
Thông thường cá mú lúc còn nhỏ là cái, khi lớn chuyển
thành đực. Trong thực tế sản xuất thường rất khan
hiếm cá đực, phương pháp tiêm hoặc cấy 17 - a
Methyltestosterone được áp dụng để tăng số lượng cá đực.
Chọn cá cho đẻ:
Tiêuchuẩn chọn cá thành thục sinh dục như sau: một cá
cái thành thục khi đường kính trứng đạt 0,4-0,5mm, đối
với cá đực khi vuốt nhẹ vùng gần lỗ sinh dục xuất
hiện sẹ (tinh dịch) màu trắng đục. Các đặc điểm trên
chứng tỏ cá đã sẵn sàng tham gia sinh sản.
Sinh sản:
Chu kỳ trăng ảnh hưởng đến sự đẻ trứng của cá, cá
thường đẻ vào thời điểm vài ngày trước hoặc sau kỳ
trăng non hoặc trăng tròn. Cá có thể đẻ tự nhiên không
cần tiêm thuốc kích thích. Vaà ngày trước hoặc sau trăng
tròn hoặc trăng non, thay nườc, tạo dòng chảy liên tục.
Nguồn nước mới, thay đổi nhiệt độ và dòng chảy
là những tác nhân kích thích cá đẻ trứng và phóng tinh.
Ấp trứng:
Sau khi cá đẻ, trứng thụ tinh có đường kính 0,8-0,9mm,
nổi lơ lửng gần mặt nước. Nước biển được bơm vào
bể đẻ liên tục tạo thành dòng chảy tràn vào bể thu
trứng bên trong đặt một giai thu trứng mắt lưới
0,2-0,3mm. Trứng thụ tinh được chuyển vào bể ấp ngay
trong bể ương. Trứng nở sau 17-18 giờ ở nhiệt độ 28-30
độ C và độ mặn 30-33‰ .
Cá thường đẻ trứng vào ban đêm, trứng được thu gom
vào sáng sớm ngày hôm sau. Trứng thu từ bể đẻ về thường
có tảo và các chất bẩn, vì thế trước khi đưa vào ấp,
trứng phải được lọc qua lưới có đường kính mắt lướt
1mm. Mật độ trứng ấp 4000 - 5000 trứng/ m3
. Sục khí vừa đủ tạo sự tuần hoàn nước trong bể ấp
trong thời gian ấp. Ở nhiệt độ 28-30 độ C, trứng sẽ
nở trong vòng 16-19 giờ.
Ương cá bột thành cá giống
Chuẩn bị để ương:
Cá bột có thể ương trong bể ximăng, bể composit, giai đặt
trong bè hay ao đất. Bể ương có dạng hình chữ nhật
hoặc tròn, thể tích từ 4 - 10m3 , sâu 1-1,5m. Nước biển
dùng để ương cá bột cần phải lọc sạch, xử lý Chlorin
30ppm. Nước biển có độ mặn 30-34‰ , nhiệt độ nước
28-30 độ C.
Ương cá bột:
Có thể ấp trứng ngay trong bể ương hoặc ấp trứng trong
bể khác sau khi nở cá bột được chuyển vào bể ương.
Mật độ cá bột ương tùy thuộc hệ thống từ 4-5con/L
hoặc ở mật độ cao 20-30con/L. Sau khi nở 60 giở, cá bột
bắt đầu ăn thức ăn ngoài, thức ăn thích hợp là luân
trùng - SS, mật độ 5-10 cá thể/ml. Tảo Chlorella được
đưa vào bể ương duy trì ở mật độ 3x105/ml để giữ
chất lượng nước tốt đồng thời cũng làm thức ăn cho
luân trùng. Luân trùng trước khi cho cá bột ăn cần phải
được làm giàu acid béo không no (Hufa).
Từ ngày tuổi thứ 6, đưa luân trùng L vào bể ương thay
thế cho luân trùng SS. Từ ngày tuổi thứ 15-20, bổ sung ấu
trùng Artemia 1-3 cá thể/ml. Từ ngày tuổi thứ 30-35, cá
bột có thể ăn được Artemia trưởng thành, Moina hoặc các
động vật phù du lớn hơn.
Chế độ thay nước: Từ ngày đầu đến ngày tuổi thứ 10
chỉ bổ sung thêm nước mới, không thay nước. Từ ngày
tuổi thứ 10-20, thay nước 10-20% ngày và tăng lên 30%. Từ
ngày tuổi thứ 30-45, thay nước 40%/ngày và tăng lên 50% cho
đến giai đoạn cá giống.
TS. Nguyễn Tuần, Viện Nghiên cứu NTTS II - Đặc san Khoa Học Phổ thông
Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá mú
.Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh tế cao (4-68 USD/Kg). Chúng được nuôi ở nhiều nơi như: Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kông), Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines, Brunei... Nghề nuôi cq mú ở châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng nguồn giống hoàn toàn dựa vào tự...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.