Đặc điểm sinh học và sinh thái của tôm càng xanh
PHÂN LOÀI
Ngành tiết túc: Arthropoda
Ngành phụ: Anterata
Lớp giáp xác: Crustacea
Lớp phụ giáp xác bậc cao: Malocostraca
Bộ mười chân: Decapoda
Bộ phụ chân bơi: Natantia
Phân bộ: Caridea
Họ: Palaemonidae
Giống: Macrobrachium
Loài tôm càng xanh - M. rosenbergii de Man 1879 (Tên tiếng Anh: Giant prawn)
PHÂN BỐ
Tôm Càng nước ngọt phân bố khắp các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới trên thế giới.
Hiện nay được biết có trên 100 loài, trong đó hơn một phần tư số này có ở châu Mỹ.
Chúng có mặt ở hầu hết các vùng nước ngọt nội địa như sông, hồ, đầm
lầy, mương ao cũng như các vùng cửa sông. Hầu hết các loài đều
cần có nước lợ cho các giai đoạn biến thái của ấu trùng. Một số
loài thích nghi môi trường nước trong, một số loài khác gặp trong
điều kiện nước rất đục như Tôm Càng Xanh M. rosenbergii.
Một số quốc gia không có Tôm Càng Xanh phân bố trong tự nhiên như Pháp,
Mỹ, khu vực Đài Loan hiện đã di giống về nuôi trong tự nhiên.
Thường tôm càng xanh phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhưng chủ yếu
là vùng Nam và Đông Nam Châu á, một phần của Đại Tây Dương và vài
bán đảo ở Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam, tôm càng xanh phân bố từ Nha Trang trở vào.
Hình thái của tôm càng xanh được nhiều tác gi mô t như Holthius; Đức
và ctv. (1988 và 1989); Forster và Wickins 1972. Tuy nhiên, ở nước ta
trong ao nuôi hay trong khai thác tự nhiên thì xuất hiện 2 dạng tôm
càng mà được gọi là tôm càng xanh và tôm càng lửa.
Tôm càng xanh phân bố ở tất cả các thủy vực nước ngọt (đầm,
ao, sông, rạch, ruộng lúa...) và kể cả ở vùng nưóc lợ cửa sông.
Trên thế giới tôm phân bố ở khu hệ ấn Độ Dương và Tây Nam
Thái Bình Dương. Ở Việt nam, tôm càng xanh phân bố chủ yếu các
tỉnh Nam bộ đặc biệt là các vùng nước ngọt và vùng cửa sông
ven biển ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Đời sống và sinh sản của tôm
càng xanh
Tôm
càng xanh có trọng lượng khá lớn, con đực có thể đạt tới
450g/con. Thân tương đối tròn, con trưởng thành có màu xanh dương
đậm. Chuỷ phát triển nhọn, 1/2 chuỷ ngoài cong lên, trên mắt chuỷ có
11-15 răng, 3-4 răng sau hốc mắt, mắt dưới thường 12-15 răng. Chiều dài
chuỷ của tôm cái khi trưởng thành thường bằng hoặc ngắn hơn vỏ
đầu ngực, còn chuỷ tôm đực dài hơn chiều dài vỏ đầu ngực.
Chân
ngực thứ hai luôn luôn phát triển hơn các chân khác, nhất là ở tôm
đực trưởng thành, đôi chân ngực thứ 2 có hình dạng và kích thước
giống nhau.
Khi
chiều dài bình quân 8-14cm, trọng lượng cơ thể từ 10-20g, tôm càng
xanh có sự phát triển tương đương giữa con đực và con cái. Khi chiều
dài vượt quá 14cm, con đực thường phát triển nhanh hơn con cái.
Trong
quá trình nuôi, thả nuôi trực tiếp tôm bột (postlarvea) sau 7 tháng nuôi,
cá thể đực lớn nhất đạt 110g, cá thể cái lớn nhất chỉ đạt 50g.
Vòng
đời của tôm càng xanh có 5 giai đoạn chủ yếu:
Trứng
- ấu trùng - Tôm bột (postlarvae) - Tôm giống (juvenile) - Tôm trưởng
thành (adult).
Mỗi
một giai đoạn, đòi hỏi môi trường và điều kiện sống khác nhau.
Khi
con cái và con đực trưởng thành, ở con cái có trứng chín thì xảy
ra hiện tượng lột xác, con đực và con cái tiến hành giao vỹ rồi ấp
trứng. Khi
tôm đang ấp trứng, buồng trứng vẫn phát triển, phóng thích ấu trùng
ở bụng xong, sau 2-5 ngày lại lột xác, giao vỹ và đẻ tiếp.
Theo
Ling (1969), ấu trùng trải qua 8 giai đoạn, nhưng theo Uno và Soo (1969),
thì ấu trùng trải qua 11 lần lột xác tương ứng với 11 giai đoạn
biến thái khác nhau trước khi biến thái qua hậu ấu trùng (postlarvae).
Mỗi
giai đoạn có hình thái và kích thước khác nhau. Giai đoạn 1 dài
khoảng 2mm, giai đoạn 11 dài khoảng 7mm.
Giai
đoạn hậu ấu trùng có hình dạng giống như tôm trưởng thành nhỏ, di
chuyển chủ yếu bằng cách bò nhiều hơn là bơi lội tự do. Khi chúng
bơi thường theo kiểu mặt lưng ở phía trên và tiến về phía trước.
Chúng có thể lẩn tránh nhanh nhẹn bằng cách co các cơ bụng lại. Các
hậu ấu trùng có khả năng chịu được sự dao động lớn của nồng độ
muối.
Tôm
Càng Xanh sinh sản gần như quanh năm. Tuy nhiên, ở những khu vực khác
nhau thì các tháng đẻ rộ không trùng nhau. tại Việt Nam, theo Nguyễn
Thắng (1993) và Phạm Văn Tình (1996) mùa đẻ rộ nhất của Tôm
Càng Xanh ở Đồng Bằng Nam Bộ tập trung vào hai thời điểm từ tháng 4
đến tháng 6 và từ tháng 8 đến tháng 10.
Tôm
Càng Xanh trưởng thành ở nước ngọt, thành thục phát dục, giao vĩ
và đẻ trứng ở đó, nhưng khi ôm trứng và ấp trứng chúng có xu thế
bơi ra vùng nước lợ từ 6-18 phần ngàn.
Lỗ sinh dục đực nằm ở phần gốc của
đôi chân ngực thứ 5 (bộ phận được biểu lộ ra ngoài).
Tôm
cái có đầu và chân ngực thứ hai nhỏ hơn nhiều so với con đực cùng
tuổi. Lỗ sinh dục của con cái nằm ở ức giữa đôi chân bò thứ 3.
Trứng chín có màu đỏ da cam, có thể nhìn thấy qua lớp vỏ giáp đầu
ngực. Quá trình giao vĩ chỉ có thể thực hiện được giữa con
đực thành thục sinh lý có thể trạng khỏe mạnh với con cái vừa mới
hoàn tất lột vỏ gọi là "tiền giao vĩ" (premouting). Có thể
chia quá trình giao vĩ thành 4 giai đoạn: Tiếp xúc, Ôm giữ con cái,
Trèo lên lưng, Lật ngửa và gắn túi tinh
Sau
khi giao vĩ vài giờ tôm cái bắt đầu đẻ trứng.
Khi
đẻ trứng con cái cong mình về phía trước đến khi bụng và ngực
tiếp xúc nhau, tạo nên sức mạnh đẩy đưa trứng từ buồng trứng ra
ngoài qua lỗ sinh dục, trứng được thụ tinh ở đây và rơi thẳng vào
buồng ấp trứng.
Buồng
ấp trứng được tạo thành bởi màng bụng uốn vào và phần gốc của
những chân bụng đầu tiên phát triển dài ra và có những tấm lông
cứng, dài để mang trứng khi tôm sinh sản.
Buồng
ấp trứng ở chân bụng thứ 4 được nhận trứng trước tiên, rồi lần
lượt chân bụng thứ 3, thứ 2 và cuối cùng là chân bụng thứ nhất.
Trong buồng ấp, trứng được bao bọc bởi một màng nhày trong suốt,
dính chặt vào các sợi lông ở 4 đôi chân bụng đầu tiên. Trứng
thụ tinh được giữ lại ở khoang bụng. Trong quá trình ấp trứng, các
đôi chân bụng hoạt động liên tục, cấp dưỡng khí cho trứng phát
triển, trứng nào bị hư sẽ bị loại ra bằng đôi chân ngực thứ 2.
Số
lượng trứng đẻ ra tỷ lệ thuận với trọng lượng tôm cái. Sức sinh
sản tương đối trung bình từ 700-1000 trứng/ 1 gam tôm mẹ thành
thục.
Tôm
cái có đặc điểm mắn đẻ, gặp điều kiện thuận lợi thức ăn đầy
đủ, tôm có thể đẻ 4-6 lần trong năm. Buồng trứng thường tái phát
dục khi tôm cái đang mang trứng, phóng thích ấu trùng ở bụng xong sau
2-5 ngày lột xác, giao vĩ và đẻ tiếp.
Khoảng
thời gian giữa hai lần lột xác tiền giao vĩ ngắn nhất là 23 ngày.
Trứng
có hình hơi bầu dục, dài khoảng 0,6-0,7mm, khi mới đẻ trứng có màu
vàng sáng chuyển dần sang màu da cam, đến ngày thứ 12 màu da cam của
trứng nhạt dần và ngả màu xám xanh nhạt, từ màu xám xanh nhạt
chuyển dần sang xám đậm, trước khi nở khoảng hai, ba ngày thì trứng
ngả sang màu xám đen (màu đen là mắt của ấu trùng còn nằm trong
trứng). Như vậy dựa vào màu sắc của trứng có thể dự đoán
được ngày ấu trùng nở.
Những
con cái không giao vĩ nhưng đã thành thục, chín mùi sinh dục cũng
có thể đẻ trứng sau khi lột vỏ "tiền giao vĩ" nhưng những
trứng không được thụ tinh này chỉ được giữ trong buồng ấp trứng
một vài ngày sau đó bị thải ra ngoài. Tôm cái mang trứng dưới bụng
và bảo vệ trứng đến khi nở.
Thời
gian tôm cái mang trứng đến khi nở phụ thuộc vào nhiệt độ nước và
dao động trong khoảng trên dưới 3 tuần. Theo Ling (1962), ở nhiệt độ
từ 25-310C, thời gian ấp trứng từ 19-23 ngày, còn Subramanyam
(1980) là 15-21 ngày. Với kết quả theo dõi tại viện Hải Dương học
Nha Trang, trong điều kiện thí nghiệm nhiệt độ nước được giữ ổn
định ở 280C, thời gian ấp trứng từ 18-21 ngày. Trong điều
kiện không có điều nhiệt, nhiệt độ nước dao động từ 26-300C
thì thời gian ấp trứng từ 17-23 ngày.
Trứng
thường nở vào ban đêm, sau 1-2 đêm mới nở hết, ấu trùng được
phát tán bởi sự hoạt động nhanh của các chân bụng tôm mẹ. ấu
trùng của Tôm Càng Xanh sống phù du và bơi lội tích cực, đuôi
hướng về phía trước, bụng ngửa lên trên. Chúng sống trong môi
trường nước lợ. Trong tự nhiên,
ấu trùng có thể nở ra ở vùng nước ngọt hay nước lợ. Nếu nở ra ở
vùng nước ngọt, ấu trùng phải di chuyển ra vùng nước lợ để sống,
nếu không di chuyển được sau 3-15 ngày sẽ chết hết. ấu trùng thường
sống trong vùng nước có độ mặn từ 7-18% để tồn tại và phát triển.
Thời gian ấu trùng chuyển thành tôm bột nhanh nhất 16 ngày và dài nhất
khoảng 40 ngày. Khi chuyển thành tôm bột, chúng sẽ di chuyển về vùng
nước ngọt để phát triển và tăng trưởng. Lúc này tôm bột có độ
thẩm thấu độ mặn rộng, đó là đặc tính của loài tôm này.
Tôm
bột có chiều dài khoảng 7mm, đặc tính bơi giống tôm trưởng thành,
cơ thể có màu trong mờ, phía đầu có màu hơi đỏ.
Theo
một số tài liệu (ĐH Cần Thơ):
Vòng
đời của tôm càng xanh có có 4 giai đoạn rõ ràng là trứng, ấu
trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành. Tôm trưởng thành
sống ở vùng nước ngọt, thành thục và giao viù trong nước
ngọt, nhưng sau đó chúng di cư ra vùng nước lợ (có độ mặn
6-18%o) và ấu trùng nở ra, sống phù du trong nưóc lợ. Khi hoàn thành
11 lần lột xác để thành tôm con thì tôm di chuyển dần vào trong
vùng nước ngọt.
Trong
tự nhiên, tôm thành thục và giao vĩ xảy ra hầu như quanh năm. Tùy
từng nơi mà chỉ tập trung vào những mùa chính, ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long, có hai mùa tôm sinh sản chính là khong tháng 4-6 và tháng
8-10. Tôm cái thành thục lần đầu ở khong 3-3.5 tháng kể từ
hậu ấu trùng 10-15 ngày tuổi (PL10-15). Kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt
thành thục được ghi nhận là khong 10-13cm và 7.5g. Tuy nhiên, tuổi
thành thục và kích cỡ thành thục của tôm còn phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố như môi trường và thức ăn.
Phân
biệt giới tính
Có
thể phân biệt tôm đực và cái dễ dàng thông qua hình dạng bên
ngoài của chúng. Tôm đực có kích cỡ lớn hơn tôm cái, đầu
ngực to hơn và khoang bụng hẹp hơn. Đôi càng thứ hai to, dài và
thô. ở con đực còn có nhánh phụ đực mọc kế nhánh trong của
chân bụng thứ hai. Nhánh phụ đực bắt đầu xuất hiện ở giai
đoạn ấu niên khi tôm đạt kích cỡ 30 mm và hoàn chỉnh khi tôm
đạt 70 mm. Ngoài ra, ở giữa mặt bụng của đốt bụng thứ
nhất còn có điểm cứng.
Tôm
cái thường có kích cỡ nhỏ hơn tôm đực, có phần đầu ngực
nhỏ và đôi càng thon. Tôm có 3 tấm bụng đầu tiên rộng và dài
tạo thành khoang bụng rộng làm buồng ấp trứng. Cơ quan sinh dục
trong của con đực gồm một đôi tinh sào, một đôi ống dẫn tinh
và đầu mút. Đôi tinh sào ngoằn ngoèo nằm giữa lưng của giáp
đầu ngực được nối với ống dẫn tinh chạy từ trước tim
dọc sang hai bên viền sau của giáp đầu ngực và đổ vào đầu mút
nằm ở đốt coxa của chân ngực 5.
Tập
tính ăn
Tôm
Càng Xanh là loài ăn tạp nghiêng về động vật, thức ăn tự nhiên
của chúng là các loại nguyên sinh động vật, giun nhiều tơ, giáp
xác, côn trùng, nhuyễn thể, các mảnh cá vụn, các loài tảo, mùn bã
hữu cơ và cát mịn.
Tôm
Càng Xanh xác định thức ăn bằng mùi và màu sắc.
Tôm
tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác (râu), khi tìm được thức ăn,
chúng dùng chân ngực thứ nhất kẹp gắp thức ăn đưa vào miệng.
Trong
thời gian ấp trứng tôm có thể nhịn ăn vài ba ngày.
Hình
dạng và mùi vị thức ăn đóng vai trò quan trọng trong việc hướng tôm
đến bắt mồi. Điều này rất quan trọng trong việc chế biến thức ăn
cho tôm.
Tôm
thường bắt mồi nhiều vào chiều tối và sáng sớm, tôm thường bò trên
mặt đáy ao, dùng càng nhỏ đưa mồi vào miệng. Đặc tính của tôm càng
xanh nếu không đủ thức ăn, chúng hay ăn thịt lẫn nhau khi lột xác,
đây là đặc tính của loài. Khi nuôi tôm thương phẩm phải lưu ý
đến hiện tượng này và dùng các biện pháp kỹ thuật để hạn chế sự
ăn thịt lẫn nhau của tôm.
Tôm
càng xanh trưởng thành là loài ăn tầng đáy, nó sử dụng nhiều
loại động vật khác nhau để làm thức ăn từ nhuyễn thể, giáp
xác đến to sợi và kể c chất thối rữa hữu cơ, và tôm cũng ăn
thức ăn viên công nghiệp. Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác,
chúng dùng râu quét ngang, dọc phía trước hưóng di chuyển. Khi tìm
gặp thức ăn chúng dùng chân ngực thứ nhất kẹp lấy thức ăn,
đưa chân hàm và từ từ đưa vào miệng. Tôm có hàm trên và hàm
dưới cấu tạo bằng chất kitin nên nghiền được các loại
thức ăn cứng như nhuyễn thể... Trong quá trình tìm thức ăn tôm
có tính tranh giành cao, cá thể nhỏ thường tránh xa đàn hay khi tìm
được một miếng thức ăn thì di chuyển đi nơi khác, trong khi đó
con lớn vẫn chiếm chỗ và đánh đuổi tôm nhỏ. Ngoài ra, tôm còn
ăn đồng loại khi chúng yếu (ví dụ như mới lột) hay khi thiếu
thức ăn.
Lột xác
Giống như các loài giáp xác khác, sinh trưởng của tôm càng xanh không liên
tục, có sự gia tăng kích thước nhanh sau mỗi lần lột xác. Tốc
độ sinh trưởng của tôm đực và cái gần như tương đương nhau
cho tới khi chúng đạt kích cở 35-50g, sau đó khác nhau rõ theo
giới tính, tôm đực sinh trưởng nhanh hơn tôm cái và đạt trọng
lượng có thể gấp đôi tôm cái trong cùng một thời gian nuôi. Tôm
cái khi bắt đầu thành thục (khong 40g, hay 140-150cm chiều dài) thì
sinh trưởng giảm vì nguồn dinh dưỡng chủ yếu tập trung cho sự
phát triển của buồng trứng.
Một hiện tượng thường thấy trong nuôi tôm càng xanh là sự phân đàn
khá rõ kể cả trong cùng một nhóm giới tính. Kích thưóc của tôm
có thể đạt 40-50 g trong thời gian 4-5 tháng nuôi. Kích cở tôm
lớn nhất tìm thấy ở ấn độ là 470 g, Thái lan 470 g và Việt
nam 434 g.
Để sinh trưởng, cũng như các loài giáp xác khác, Tôm Càng Xanh
đều phải lột vỏ theo chu kỳ của nó, quá trình này được gọi
là sự lột xác và tiếp theo sau đó là sự gia tăng đột ngột
về kích thước và trọng lượng.
Khi tôm đã trưởng thành, còn có dạng lột xác sinh sản (xảy ra ở
con cái).
Chu kỳ lột xác của tôm tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng,
tình trạng sinh lý, điều kiện dinh dưỡng, điều kiện môi
trường,.... Tôm càng xanh tuân theo qui luật chung của tôm là
tôm nhỏ chu kỳ lột xác ngắủn hơn tôm lớn. Chu kỳ lột xác
của tôm trình bày trong bảng 3.1
Thời gian lột xác của tôm càng xanh.
Trọng lượng (g/con) |
Chu kỳ lột xác (ngày) |
2-5
6-10
11-15
16-20
21-25
26-35
36-60 |
9
13
17
18
20
22
22-24 |
Cơ
chế lột xác của tôm càng xanh giống như các loài giáp xác chân
đốt khác. Khi tôm tích lũy đầy đủ chất dinh dưỡng, năng lượng
và tới chu kỳ lột xác thì lúc đó lớp vỏ mới hình thành dần
dưới lớp vỏ cũ, lớp này rất mỏng, mềm và co giãn được.
Khi lớp vỏ mới này phát triển đầy đủ thì tôm tìm nơi vắng
và giàu oxy để lột vỏ. Khi lớp vỏ cũ lột đi, vỏ mới còn
mềm và co giãn được và dưới áp lực của khối mô cơ lâu ngày
bị ép bởi lớp vỏ cũ, cơ thể tôm bấy giờ giãn nở, lớn lên
nhiều và khác hẳn với lúc trước lột xác. Lớp vỏ mới cứng
dần sau 3-6 giờ và tôm sẽ hoạt động lại bình thường sau đó.
Quá
trình lột vỏ của tôm thực hiện rất nhanh chỉ trong vòng 3-5 phút.
Khởi đầu tôm ngưng hết mọi hoạt động bên ngoài, uống cong mình
gây nên áp lực ngày càng tăng phá vở lớp màng giữa giáp đầu
ngực và vỏ tạo nên một khong hở ngang lưng. Tôm lúc này co mình
thành hình chữ U, áp lực bên trong cơ thể tăng lên, và dần dần
tôm thoát toàn bộ cơ thể qua khoang hở ở lưng. Sau mỗi lần
lột xác, cơ thể tôm tăng lên 9-15% trọng lượng thân.
Môi
trường sống:
Nhiệt
độ: tôm càng xanh là loài thích nghi với biên
độ nhiêt độ rộng từ 18-34oC, nhiệt độ tốt nhất là 26-31oC,
ngoài phạm vi nhiệt độ naữy tôm sẽ sinh trưởng chậm hay khó
lột xác.
pH:
mức pH thích hợp nhất cho tôm càng xanh là 6.5-8.5, ngoài khoảng này
tôm có thể sống được nhưng sinh trưởng kém, pH dưới 5 tôm
hoạt động yếu và chết sau 6 giờ. Khi gặp môi trường có pH
thấp tôm sẽ nổi đầu, dạt vào bờ, mang đổi màu, mang và các
phụ bộ bị lở loét, tôm bơi lội chậm chạp và chết sau đó.
Oxy
hòa tan: môi trường phải có oxy hòa tan >
3 mg/l, dưới mức nầy tôm hoạt động yếu, tập trung ven bờ,
nổi đầu và chết sau vài giờ. Nếu hàm lượng oxy vượt quá
mức bảo hòa cũng gây tác hại đến tôm nhất là quá trình hô
hấp (chứa nhiều khí trong hệ tuần hoàn, cản trở lưu thông máu).
ánh
sáng: vừa phi, cường
độ thiủch hợp nhất là 400 lux. Aủnh sáng cao sẽ ức chế hoạt
động của tôm, do vậy ban ngày có ánh sáng cao tôm xuống đáy
thủy vực trú ẩn, ban đêm hoạt động tìm mồi tích cực. Tôm không
ưa ánh sáng có cường độ cao nhưng lại có tính hướng quang vào
ban đêm, khi có luồng sáng thì tôm sẽ tập trung lại, và tôm
lớn có tính hướng quang kém hơn tôm nhỏ.
Nồng
độ muối: Tôm thích hợp nồng độ muối từ 0-16%o, tôm trưỏng
thành sinh trưởng tốt ở vùng cửa sông ven biển.
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.