Kỹ thuật nuôi tôm chân trắng nguyên chủng
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Kỹ thuật nuôi tôm chân trắng nguyên chủng
Kỹ thuật nuôi tôm chân trắng nguyên chủng
Theo đà phát triển của nghề nuôi tôm chân trắng, diện tích,
sản lượng, hiệu quả nuôi tăng khá nhanh, nhưng đã có hiện tượng
chất lượng tôm giống thoái hoá nghiêm trọng, tốc độ lớn
của tôm giảm nhiều, đặc biệt là tôm lớn không đều trong đầm
tôm nuôi.
Ðể giải quyết tình trạng này, đưa nghề nuôi tôm chân trắng
phát triển theo hướng lành mạnh, nhanh chóng và bền vững. Năm
2001 Trung Quốc đã nhập nội giống tôm he chân trắng nguyên
chủng về nuôi và cho kết quả tương đối khá.
I.
Kỹ thuật nuôi vỗ tôm chân trắng bố mẹ
1.
Tháng 2-4/2001 nhập 4 đợt tổng số 500 đôi tôm nguyên chủng
sạch bệnh đã được khử trùng từ Hawai (Mỹ) về nuôi ở 2 bể
xây hình chữ nhật. Diện tích mỗi bể 50m2, mức nước 70cm,
nhốt tôm đực, tôm cái riêng.
Nguồn nước lấy từ nước giếng cát mặn lắng lọc sạch, độ
mặn 28-32 pH 7,8 - 8,8 và đưa vào bể muối. Ðược ít ngày tôm
hồi phục sức khoẻ và ăn mồi bình thường thì có thể dùng
kẹp nóng cắt cuống mắt đơn của tôm mẹ.
2.
Thức ăn và cách cho ăn
Chủ yếu là rươi sống, thịt hầu tươi, thịt bạch tuộc tươi.
Chỉ khi thiếu thức ăn tươi sống mới dùng thêm thức ăn công
nghiệp. Ngày cho ăn 4 lần trở lên theo nguyên tắc lượng ít
nhiều lần để tôm ăn no đủ sức phát triển buồng trứng chóng
thành thục. Lượng cho ăn mỗi ngày từ 15 - 18% thể trọng tôm
trong bể.
3.
Hút nước và thay nước
Ðể đảm bảo môi trường luôn trong sạch, đủ ôxy, tôm ăn
nhiều, phát triển tốt và không sinh bệnh. Ðây là việc làm hàng
ngày, lượng nước thay 80% hoặc hơn.
4.
Khống chế nhiệt độ ổn định
Ðầu vụ nuôi nhiệt độ ngoài trời còn thấp nên cần nâng
nhiệt nước tới mức ổn định 29oC. Chú ý nhiệt độ nước ở
bể chứa nước (để thay nước cho bể nuôi) cũng phải khống
chế ngang với ở bể nuôi rồi mới đưa vào bể.
5.
Chọn tôm cái thành thục
Tôm cái sau khi cắt cuống mắt, nuôi vỗ tích cực khoảng 10 ngày
trở lên thì lần lượt thành thục.
Hằng ngày vào khoảng 10 giờ sáng, sau khi hút cặn thay nước xong,
chọn những con cái đã thành thục thả vào bể tôm đực để cho
chúng tự giao phối, khoảng 4 giờ chiều thắp đèn chiếu sáng
bể tôm để kích thích nâng cao tỉ lệ tôm giao vĩ.
6.
Bắt tôm cái sau khi giao phối
Mỗi buổi tối từ 8 đến 11 giờ bắt tôm cái đã giao phối đưa
vào bể tôm đẻ. Mật độ : 4 - 5 con/m2 bể.
Chú
ý : - Khi tôm đang đẻ sục khí nhỏ để tăng tỉ lệ nở, tránh
sục mạnh làm vỡ trứng.
- Kịp thời chuyển tôm cái sang bể khác, khi thấy chúng đã đẻ
xong.
- Từ 30 phút đến 1 giờ khuấy đảo trứng nhẹ 1 lần để
trứng khỏi bị đọng ở đáy bể thiếu ôxy sẽ chết nhiều.
7.
Kết quả
Từ 10/3 có một số tôm cái thành thục đẻ trứng, đến 5/8 tất
cả 425 con tôm cái đẻ trứng, tỉ lệ đẻ đạt 85%, tỷ lệ giao
vĩ đạt 75%, tỷ lệ nở 82,03%. Tổng số ấu trùng Nauplius thu được
là 586,71 triệu con.
Trong khi lưu giữ giống nguyên chủng cần chú ý tạo điều kiện
cho tôm thích nghi dần với môi trường ở địa phương, nếu không
tôm dễ bị bệnh.
II. Ương ấu trùng tôm
Bể ương tôm giống : 100m2, cao 1,4m.
Nguồn nước cũng lấy từ giếng cát mặn đã lắng lọc sạch, độ
mặn 28 - 32; pH 8,0 - 8,3.
Ðưa ấu trùng Nauplius vào ương với mật độ 2 triệu con/bể,
khống chế nhiệt độ nước ở bể ương 30oC.
Ngày cho ăn 6 lần. mấy ngày đầu cho ăn mảnh tôm (bột tôm), BP
(thức ăn hạt nhỏ) và bột tảo. Sang giai đoạn Zoea cho ăn 1 lượng
nhất định thức ăn sinh vật (cốt điền tảo). Từ Mysis tới
cuối giai đoạn tôm bột cho ăn chủ yếu là bột tôm kết hợp
với một ít artemia. Từ P3 trở đi cách 2 ngày thay 1 ít nước
biển sạch mới vào bể ương 1 lần, lượng nước thay tăng dần
do ấu trùng ngày càng lớn
Trong giai đoạn M1 và M2, đưa thuốc kháng sinh vào bể đề phòng
bệnh là rất cần thiết (dùng Furazolidon và oxytetracycline).
Kết quả ương từ ngày 5/6 đến 8/7. Có 2 ao ương, mỗi ao thả 2
triệu Nauplius. Ao thứ nhất thu được 95 vạn tôm bột Postlarvae
(P) tỷ lệ sống 47,5%. Ao thứ hai thu được 76 vạn tôm bột, tỷ
lệ sống 38%.
Tỷ
lệ tôm bột sống thấp ngoài nguyên nhân và chất nước còn do chưa
cung cấp đủ thức ăn phù hợp trong giai đoạn M1 và M2 là giác
mao tảo và kim tảo, nên phải cho ăn loại tảo kém chất lượng hơn
là cốt điều tảo.
III.
Nuôi tôm thịt
Diện tích ao: Ao số 1 : 2.000m2 - Ao số 2 : 9.000m2
Các ao đều lắp máy quạt nước. Nguồn nước là nước biển
tự nhiên, độ mặn 12 - 20, pH = 7,8 - 8,2. Ao được tẩy dọn
sạch, phơi nắng, khử trùng trước khi thả giống, cho nước vào
sâu 1,2m và bón phân gây mầu để tạo sẵn thức ăn tự nhiên ban
đầu.
Khi độ trong nước ao 40 - 50cm thì thả tôm bột vào ao.
Ao số 1 thả 30 vạn con.
Ao số 2 thả 33 vạn con.
Trong 5 ngày đầu, mỗi ngày cho ăn 1 lần, từ ngày thứ 6 đến
thứ 10, mỗi ngày cho ăn 2 lần, sau đó ngày cho ăn 4 lần. Từ tháng
thứ 2 trở đi mỗi ngày cho thêm 5 - 10cm nước ngọt. Suốt quá trình
nuôi không cần cho thêm nước mặn. Cuối giai đoạn nuôi tôm
thịt rắc vôi bột 2 - 3 lần/tháng, để cải thiện chất nước và
chất đáy. Ngoài ra nên định kỳ bón vi khuẩn quang hợp.
Kết quả:
Ao số 1: Ngày 4/7 thả 30 vạn tôm bột, ngày 4/10 thu hoạch (sau 92
ngày nuôi), sản lượng tôm thịt 3.413 kg, qui ra năng suất 17
tấn/ha, con lớn nhất dài 15,6cm, nặng 18,2g, cỡ trung bình dài
12,2cm nặng 14,8g. Tỉ lệ sống 76,87% lượng thức ăn sử dụng
3.800 kg, hệ số thức ăn 1,11.
Ao số 2: Ngày 20/4 thả 10 vạn tôm bột, ngày 23/4 thả tiếp 23
vạn con. Ngày 15/7 thu hoạch. Qua 85 - 93 ngày nuôi tôm thịt đạt
3.675 kg, năng suất bình quân 282,69 kg/660m2. Con lớn nhất dài 11,8cm
nặng 21g; bình quân dài 10,3cm, nặng 14,2g, tỷ lệ sống 78,43%, lượng
thức ăn sử dụng 3.400 kg, hệ số thức ăn 0,93.
Nhìn
chung sử dụng tôm giống sản xuất từ tôm bố mẹ nguyên chủng
mới nhập để nuôi tôm thịt tốt hơn hẳn tôm giống từ các
nguồn khác ở địa phương. ưu thế là : tôm thịt đều cỡ hơn,
thân hình bóng đẹp, thịt chắc hơn, tốc độ lớn nhanh hơn. Tuy
vậy, tôm bột chưa quen thích nghi điều kiện môi trường ở địa
phương nên sau khi đưa vào ao nuôi tôm thịt mới 1 tuần đã thấy
một số con bị bệnh. Vì vậy trong khi lưu giữ giống nguyên
chủng sau này cần chú ý tới khâu tạo điều kiện cho tôm thích
nghi dần với môi trường ở địa phương.
TBH
(theo "Thuỷ sản Trung Quốc số 2/2002) - Tạp chí KHCN TS, 7/2003
Kỹ thuật nuôi tôm chân trắng nguyên chủng
Theo đà phát triển của nghề nuôi tôm chân trắng, diện tích, sản lượng, hiệu quả nuôi tăng khá nhanh, nhưng đã có hiện tượng chất lượng tôm giống thoái hoá nghiêm trọng, tốc độ lớn của tôm giảm nhiều, đặc biệt là tôm lớn không đều trong đầm tôm nuôi. Ðể giải quyết tình trạng này, đưa nghề nuôi...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.