Hướng dẫn nuôi tôm càng nước ngọt ở Ấn Ðộ
|
|
Đánh giá: 0 người đã đánh giá bài báo này.
Người viết: khachnonghoc,
ngày 7/29/2013,
trong mục "
TIN NÔNG NGHIỆP"
Tóm tắt: Hướng dẫn nuôi tôm càng nước
ngọt ở Ấn Ðộ
Hướng dẫn nuôi tôm càng nước
ngọt ở Ấn Ðộ
Tôm càng nước ngọt Macrobrachium rosenbergii là
đối tượng nuôi ngày càng được
chú ý hơn do tốc độ tăng trưởng
cao, khả năng chịu đựng tốt và
đòi hỏi dinh dưỡng về prôtêin rất
thấp. ở ấn Ðộ hiện nay, nuôi tôm càng
nước ngọt (TCNN) đã có vị trí
nhất định trong nuôi trồng thủy
sản, sản xuất có lãi và là một nguồn
thu ngoại tệ. Khi dân số tăng và nhu
cầu thực phẩm ngày càng cao, nhiều người
bắt đầu nuôi TCNN nhằm đáp ứng nhu
cầu này.
Vài năm gần đây, nuôi TCNN ở ấn Ðộ
mới được quan tâm phát triển. Sau cơn
bộc phát bệnh đốm trắng trong nuôi tôm
biển và sự xuất hiện các biện pháp
quản lý cải tiến mang lại năng
suất cao hơn, ngày càng có nhiều nông dân
bắt đầu triển khai nuôi loài tôm này. Tuy
nhiên, mặc dù có công nghệ nuôi tiên tiến
đạt năng suất cao nhưng hầu hết
trại nuôi TCNN ở ấn Ðộ vẫn sử
dụng hệ thống nuôi quảng canh. Bài
viết này giới thiệu một số hướng
dẫn giúp người nuôi tôm tăng sản lượng
tôm và hiệu quả bền vững của
trại nuôi.
Thu thập giống
ở ấn Ðộ hiện có 2 nguồn giống
TCNN : một là giống tự nhiên từ hạ lưu
sông và các vùng nước lợ, hai là nguồn
giống sản xuất từ trại giống. Tuy
nhiên, nguồn giống tự nhiên thường
của nhiều loài khác nhau và ở những giai
đoạn phát triển khác nhau nên khi thu hoạch,
cỡ tôm thường không đồng đều
và không đạt cỡ thương phẩm phù
hợp. Do vậy, người nuôi tôm cần tách
riêng loài có thể nuôi khỏi các loài tôm khác và
cần thả giống của loài định nuôi
với cỡ bằng nhau hoặc gần bằng
nhau. Ðể khắc phục những vấn đề
trên, nên sử dụng nguồn giống sản
xuất tại trại giống. So với tôm
giống lấy từ tự nhiên, tôm giống
sản xuất trong trại giống có tỷ
lệ sống, khả năng kháng bệnh và
sức chống chịu tốt hơn với môi trường.
Nếu có thể, trước khi thả nên
thử nghiệm khả năng kháng bệnh của
tôm giống. Hiện một số trại giống
có thể cung cấp giống sạch bằng cách
sử dụng kỹ thuật chẩn đoán phân
tử tiên tiến như PCR, ELISA và Latex. Giống
được thuần hoá 2-3 ngày trước khi
thả vào ao để giúp chúng thích nghi với
điều kiện nuôi.
Nuôi lớn
TCNN chủ yếu được nuôi lớn trong
ao đất có diện tích từ 500m2 đến 1
ha, độ sâu trung bình 1-1,5m. Thả PL 1-20 và tôm
non cỡ 1-2g là phù hợp nhất. Mật độ
thả ấu trùng tôm và tôm non phụ thuộc vào
cỡ thương phẩm mong muốn và thiết
bị tại trại nuôi. Nói chung, cỡ thương
phẩm vào thời điểm thu hoạch giảm
khi tăng mật độ thả giống. Nên
thả tôm giống với mật độ
khoảng 5 10/m2 để đạt cỡ phù
hợp khi thu hoạch. Khi cỡ ấu trùng tôm
lớn hơn, cần tạo nơi trú ẩn
bằng cách thả các mảnh ngói vỡ, ống
PVC hoặc tảng đất xuống đáy ao
nhằm giảm hiện tượng ăn thịt
lẫn nhau của chúng trong ao nuôi.
Thức ăn và cách cho ăn trong ao nuôi lớn
Quản lý thức ăn mang tính quyết định
để đạt hiệu quả trong nuôi TCNN. Là
động vật ăn tạp hoặc thích ăn
động vật hơn nên để đạt
được tỷ lệ tăng trưởng
hợp lý và năng suất cao, chế độ
ăn của TCNN cần bao gồm cá tạp,
vẹm hoặc thịt nghêu, giun nhỏ, ấu trùng
côn trùng và nhuyễn thể nhỏ (cần lưu
ý là việc sử dụng các loài giáp xác khác làm
thức ăn thường có nguy cơ lây lan
bệnh cao). Bên cạnh đó, có thể sử
dụng thức ăn bổ sung làm từ bánh
dầu lạc, dầu đậu nành, cám gạo,
bột mì, bột cá, trứng bổ sung thêm vitamin
và chất khoáng để tăng năng suất.
Sử dụng thức ăn dạng viên ướt
với lượng phù hợp để cung cấp
dinh dưỡng cần thiết cho tôm. Xác định
tỷ lệ cho ăn dựa vào cỡ và số lượng
tôm, chỉ số về chất lượng nước
cũng như đặc tính thức ăn. Nên
sử dụng các khay kiểm tra việc cho tôm
ăn. Cho ăn bằng khay là phương pháp cho
ăn tốt nhất, do không có thức ăn
thừa và không làm ô nhiễm môi trường nước.
Cũng có thể rải đều thức ăn
khắp ao nhưng chỉ nên tại vùng gần
bờ ao hoặc tại một số địa
điểm nhất định. Nên cho ăn vào
buổi sáng và buổi tối do ban ngày tỷ
lệ trao đổi chất và các hoạt động
khác của tôm giảm.
Quản lý nước
Các chỉ số về chất lượng nước
là yếu tố sống còn trong nuôi TCNN. Chất lượng
nước thay đổi trên cơ sở mật
độ thả giống, tỷ lệ cho ăn và
việc thay nước. Thiếu ôxy là hiểm
hoạ phổ biến nhất tại các trại nuôi
tôm, do có nhiều chất hữu cơ, cho ăn quá
nhiều, và hiện tượng tảo nở hoa. Có
thể tăng lượng ôxy bằng cách sử
dụng máy sục khí hoặc thay nước. Các
chỉ số tối ưu của nước trong
ao nuôi tôm như sau: pH : 7,5-8,5; nhiệt độ
29-31oC; độ cứng 100-150mg/l theo CaC03; độ
kiềm > 50ppm; ammonia 0,1ppm; CaC03 > 40ppm; ôxy hoà tan
4ppm.
Tỷ lệ tăng trưởng của tôm
giảm khi độ cứng của nước cao.
Không nên bón phân chuồng và phân hữu cơ,
dễ làm cho nước ao bị thiếu ôxy khi vi
khuẩn phân huỷ chất hữu cơ dư
thừa. Cần thay nước với tỷ lệ
và vào thời điểm thích hợp để duy
trì chất lượng nước.
Kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh
Các tác nhân như vi khuẩn, virut, nấm, ký sinh
trùng, chất độc và các yếu tố
bất lợi khác có thể gây bệnh cho tôm và làm
cho toàn bộ hệ thống nuôi tôm ngừng
hoạt động. Do vậy, cần quan tâm đến
việc chẩn đoán, kiểm soát và ngăn
ngừa dịch bệnh. Cần kiểm tra bệnh
cho con giống trước khi thả. Cũng
cần kiểm tra kỹ lưỡng những
triệu chứng hoặc dấu hiệu bất
kỳ nào khi xảy ra bệnh. Ðiều này giúp
đảm bảo thả con giống có chất lượng,
giảm nguy cơ dịch bệnh tại trại nuôi.
Nói chung, môi trường bất lợi như lượng
ôxy hoà tan thấp, nhiệt độ luôn biến
động, pH hoặc độ cứng của nước
cao có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm và làm
giảm năng suất. Ðể kiểm soát và làm
giảm bộc phát dịch bệnh do vi khuẩn gây
ra, người nuôi cần duy trì chỉ số
chất lượng nước trong phạm vi cho phép,
có cách cho ăn hợp lý, đảm bảo các
yếu tố môi trường khác và thả
giống với mật độ phù hợp.
Nhiều bệnh trong hệ thống nuôi TCNN do
virut gây ra. Hiện chưa có thuốc hay vacxin nào
điều trị hiệu quả những bệnh
này, do virut không nhạy cảm với kháng sinh. Tuy
nhiên, có thể giảm và tránh lây lan bệnh do
virut gây ra bằng cách quản lý tốt nhằm duy
trì chất lượng nước, quản lý
thức ăn và chăm sóc sức khoẻ tôm
một cách phù hợp.
Thu hoạch và xử lý tôm sau thu hoạch
Thu hoạch tôm là thời điểm quan
trọng quyết định thành công trong nuôi TCNN.
Cần kiểm tra vỏ tôm để giảm thu
hoạch tôm bấy. Thời điểm thu hoạch
tốt nhất là buổi sáng hoặc buổi
tối do cường độ ánh sáng mặt
trời lúc ban ngày có thể là tác nhân gây lột
xác, dẫn đến tỷ lệ tôm bấy cao.
Tốt hơn là chỉ nên thu hoạch tôm đạt
cỡ thương phẩm, thả lại tôm
nhỏ hơn để nuôi tiếp đến khi
đạt cỡ thương phẩm. Bằng cách
thu tỉa này, mật độ tôm giảm và do
vậy, nâng cao tỷ lệ tăng trưởng
của tôm còn lại trong ao.
Sau thu hoạch, rửa sạch tôm bằng nước
sạch để loại bỏ chất bẩn và
tạp chất khác. Trước khi bán hay chuyển
tôm đến nhà máy chế biến, cần ướp
lạnh tôm nhằm giảm sự phá huỷ
của vi khuẩn, sự tự phân huỷ làm
ươn hỏng. Nước đá dùng ướp
lạnh tôm phải làm từ nước sạch.
Tốt nhất nên ướp lạnh tôm bằng nước
đá theo tỷ lệ khối lượng 1:1. Có
thể sử dụng đá vảy để ướp
lạnh tôm vì loại nước đá này mềm
và không gây thương tổn tôm so với sử
dụng đá cây đập nhỏ.
Với nguồn nước ngọt và nước
lợ dồi dào, ấn Ðộ có tiềm năng
to lớn phát triển nuôi TCNN. Hạn chế
hiện nay là thiếu nguồn cung cấp giống
có chất lượng, sử dụng phương
thức nuôi quảng canh và người nuôi
thiếu kiến thức về quản lý tốt.
Nếu quản lý chất lượng nước và
trại nuôi hợp lý, quan tâm nhiều hơn đến
sức khoẻ tôm thì TCNN có thể trở thành
nguồn thực phẩm và nguồn thu nhập chính
cho người dân vùng nông thôn. Những hướng
dẫn trên đây có thể sẽ giúp ích cho người
nuôi nâng cao sản lượng và duy trì tính
bền vững của trại nuôi TCNN.
ÐH, Theo Aquaculture Asia vol.VIII, No2, 2003 - Tap chi TS, 12/2003
Hướng dẫn nuôi tôm càng nước ngọt ở Ấn Ðộ
Tôm càng nước ngọt Macrobrachium rosenbergii là đối tượng nuôi ngày càng được chú ý hơn do tốc độ tăng trưởng cao, khả năng chịu đựng tốt và đòi hỏi dinh dưỡng về prôtêin rất thấp. ở ấn Ðộ hiện nay, nuôi tôm càng nước ngọt (TCNN) đã có vị trí nhất định trong nuôi trồng thủy sản, sản xuất có...
Xem chi tiết
Chia sẻ bài báo này với bạn bè.